Tứ Đại Pháp Kinh

Bất Tư Duy Pháp

 

              CHƠN như, chơn thể, chơn tâm

              LƯ tánh phăng tầm đặng thoát đường tu

              VÔ minh ái dục ngục tù

              THỪA lệnh Thượng Đế dạy tu ngươn này

              BẤT sinh bất diệt mới hay

              TƯ tưởng phân biệt sẽ thay vô cùng (vô phân biệt)

              DUY tâm duy vật nổ tung

              PHÁP tánh thể hiện, thung dung thoát trần

 

BẤT TƯ DUY PHÁP c̣n gọi là CHƠN LƯ VÔ THỪA (hay Phật Thừa cũng vậy) là pháp không thể nghĩ bàn (bất tư duy) được bằng phàm tâm trí tục  Đó là những công án giúp cho các Vị tiến hóa cao, quán tưởng đêm ngày cho vỡ lẽ, thời lập tức đắc đạo vô thượng thể nhập vào “như như chánh trí” hay c̣n gọi là “Đại Viên Cảnh Trí”.

 

Các con mới tu, đọc cho có ư niệm, chớ có nên đem phàm trí tranh căi, phiếm đàm, xàm luận, làm rối loạn bản thể của con rồi hư hết! (CHỚ KHINH THƯỜNG LỜI KHUYÊN DẠY NÀY CỦA CHA).

 

Thực ra, các vị Phật, vị Tổ, đều đắc đạo vô thượng hết, giải thoát hoàn toàn, cũng là Thượng Đế hết, hay nói đúng hơn các vị đó cũng chính là CHA phân thân điển quang để đóng vai đó mà thôi.

 

Thế nên, Kinh do các vị đó sáng tác cũng đều không thể nghĩ bàn bằng phàm trí (như Pháp Bảo Đàn của Huệ Năng, Quán Tâm Pháp của Đạt Ma, Tín Tâm Kinh của Tăng Xán, Niết Bàn, Kim Cang, Bát Nhă, Duy Ma Cật của Thích Ca).

 

Tại sao CHA nói của "Thích Ca" mà không nói của Phật. Chỗ này cũng thuộc về Bất Tư Duy Pháp, không thể nghĩ bàn bằng phàm trí v́:          

 

                          Chư Phật chẳng sở hữu

                          Lấy chi có lời dạy

                          Mà chép thành kinh sách

                          Đặng truyền lại đời sau.

 

Đây cũng là một công án để các con quán tưởng cho vỡ lẽ. Giờ đây, CHA bắt đầu an trú vào "Tam Muội Chánh Định" đặng thuyết giảng "Chơn Lư Vô Thừa", cho các con tiến hóa cao, quán tưởng tu học cho vỡ lẽ, thời sẽ đắc đạo Vô Thượng trong tức khắc không thể kịp nghĩ bàn. Nghĩ bàn là ra khỏi chơn lư nghe con! Khi trở về một công án, thời các công án khác đều bừng sáng lên cả.

 

-  Thượng Đế tượng trưng cho Chơn Lư Tối Thượng. Giải thích Chơn Lư Tối Thượng tức xa ĺa Thượng Đế.

 

-  Nhận biết được tư thể tánh của nội tâm, tức chứng được Chơn lư.

-  KHÔNG và CÓ chẳng ở nơi thực tại, thực tại là cái "ngay bây giờ". Cái chẳng phải hữu tạo, hữu tồn, hữu nhiên, hữu tại. Cái chẳng phải vô tạo, vô tồn, vô nhiên, vô tại. HỮU chẳng phải là thực tại chơn lư, cái vô cùng ở quá khứ cùng với cái vô cùng ở tương lai cũng chính là cái ngay bây giờ. V́ chưa hiểu như thế nên con người phân biệt quá khứ, hiện tại và vị lai.

 

-  Thấy SẮC mà TÂM không móng lên một niệm sắc, không thấy sắc (hay thấy không sắc cũng vậy) mà TÂM chẳng móng lên một niệm không. Đó chính là "Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc". Trong SắcKhông, trong KhôngSắc vậy!

 

-  Trong thế giới KHÔNG có thế giới SẮC, trong thế giới SẮC có thế giới KHÔNG. Chẳng có sự phân biệt giữa thế giới KHÔNG và thế giới SẮC; nếu c̣n phân biệt tức chưa phải là bậc đă đắc đạo Vô Thượng "VÔ PHÂN BIỆT".

 

-  VÔ PHÂN BIỆT tức "KHÔNG", ư thức tất cả những hiện tại, không hơn không kém, không đúng không sai, không thiện không ác, không đẹp không xấu, chứ chẳng phải không phân biệt ǵ cả. Chẳng biết phân biệt tức vô tri giác, Ngoan Không Vô Kư, nguy hiểm vô cùng.

 

-  ĐÚNG không thể là ĐÚNG, nếu không có sai

    SAI không thể là SAI, nếu không có đúng

    THIỆN không thể là THIỆN, nếu không có ác.

    ÁC không thể là ÁC, nếu không có thiện.

    XẤU không phải là XẤU, nếu không có đẹp.

    ĐẸP không thể là ĐẸP, nếu không có xấu.

 

-  C̣n phân biệt Đúng Sai, tức chẳng hiểu thực tại là ǵ?

    C̣n phân biệt Đẹp Xấu, tức chẳng hiểu t́nh thương là ǵ?

    C̣n phân biệt Thiện Ác, tức chẳng hiểu cuộc sống là ǵ?

 

-  Con người chẳng hiểu như thế, nên c̣n phân biệt ĐÚNG SAI, phân chia THIỆN ÁC, phân loại TỐT XẤU. Tư tưởng phân biệt không thể là cái hiện giờ, cái thực thể của nội tâm. Cái kín mít mà trống rỗng, sờ sờ ngay trước mắt. Cái bao la mà chẳng có độ lớn trọn vẹn, chẳng thể giới hạn bởi Hữu cùng hoặc Vô cùng.

 

-  Cuộc sống là cái đang chết mà chẳng biến đổi. Thực tại là cái đang qua mà chẳng tạo thành. T́nh thương là cái đang thể hiện mà chẳng xuất hiện.

 

-  Cái toàn bộ của cuộc sống không thể giải thích, giải thích bằng những bộ phận rời rạc: Kinh tế hoặc chính trị, văn hóa hoặc giáo dục, khoa học hoặc kỹ thuật. Cái này không thể là cái này nếu không có những cái kia. Cái kia không thể là cái kia, nếu không có những cái này.             

 

-  Xưa nay, TA có bị ràng buộc đâu mà đi t́m con đường giải thoát. Người nào đi t́m con đường giải thoát, tức tự ràng buộc lấy chính ḿnh.

 

-  Theo bất cứ ai, kể cả Phật, tức tự xa ĺa chính Tâm ḿnh và như thế khó mà được giải thoát.

 

-  Nếu Luân Hồi thực có, thời chẳng có ai thành Phật. Nếu Niết Bàn thật có thời chẳng có ai trôi lặn trong ṿng sinh tử.

 

-  "Thể tính Chơn Như Bất Biến Thường Hằng Vĩnh Cữu" xưa Thích Ca gọi là Phật Tánh, Ki Tô gọi là Tự Thể, chẳng phải cấu tạo bằng vật chất, cũng chẳng phải cấu tạo bằng Chơn Không. Nếu bằng vật chất, sẽ bị biến đổi bởi định luật của tự nhiên. Nếu bằng Chơn Không tức chẳng biết tư duy, chẳng tiếp nhận đau khổ hay sung sướng. Đến nỗi cái gọi là "Phật Tính" cũng chẳng phải Phật Tính nốt. Nếu Phật là Phật, thời Phật chẳng hiện hữu.

 

-  Chẳng thấy được Tánh, gọi là thấy Phật. Chẳng thấy được Phật mới là thấy "Tánh", ấy mới thật là thấy Tánh thành Phật, v́ chính ngay bản thân của "Thấy" là Phật Tính rồi.

 

-  Ai tự xưng ḿnh chứng ngộ chơn lư, tức chẳng hiểu chơn lư là ǵ! Ai tự khoe ḿnh là Phật, tức chẳng hiểu Phật là ǵ! Chứng được chơn lư, tức tự biết: không tu, không chứng, không ngộ, không thành, không Phật, không Pháp, không sanh, không tử.

 

-  Động loạn là hiện thể của Đại định, Đại định là tự thể của loạn động. Rời loạn động, t́m đại định là đă xa ĺa Định rồi, v́ chính ngay bản thân của LOẠN đă là ĐỊNH.

 

-  TÀ là hiện thể của CHÁNH, Chánh là tự thể của Tà. Chánh ghét, Tà ưa, thích Chánh tức là càng rơi vào Tà, v́ chính ngay cái là "Chánh" cũng là "Tà".

 

-  PHÁP (vật) là hiện thể của TÂM, Tâm là tự thể của Pháp. Bỏ Pháp t́m Tâm cũng chính là bỏ Tâm t́m Pháp, v́ chính ngay bản thân của Pháp (vật) đă là Tâm rồi.

 

-  Chúng sanh là hiện thể của chư Phật, chư Phật là tự thể của chúng sanh. Càng ĺa xa chúng sanh để t́m chư Phật, tức là ĺa xa  chư Phật vậy.

 

-  Luân Hồi là hiện thể của Niết Bàn, Niết Bàn là tự thể của Luân Hồi, càng chạy trốn Luân Hồi để đi t́m Niết Bàn tức là càng trôi lặn trong ṿng sinh tử vậy.

 

-  Giác Ngộ là tự thể của Vô Minh, Vô Minh là hiện thể của giác ngộ. Lánh xa Vô Minh để t́m Giác Ngộ là đă bị Vô Minh che lấp rồi.

 

-  Dục tính là hiện thể của Phật tính, Phật tính là tự thể của Dục tính. Chống lại Dục tính tức chống lại Phật tính vậy, v́ chính ngay bản thân của Dục tính đă là Phật tính rồi.

 

-  Sanh tử là hiện thể của Vô sanh tử, Vô sanh tử là tự thể của Sanh tử. Nếu chứng được chính ngay bản thân của Sanh tử đă là Vô sanh tử, thời thoát khỏi Luân Hồi Sanh Tử.

 

-  Danh tự là hiện thể của Vô danh tự, Vô danh tự là tự thể của Danh tự. Nếu chứng được chính ngay bản thân của Danh tự là Vô danh tự, thời đọc được "vô tự chơn kinh".

 

-  Ngôn từ là hiện thể của Vô ngôn từ, Vô ngôn từ là tự thể của Ngôn từ, nếu chứng được chính ngay bản thân của Ngôn từ là Vô ngôn từ, thời nghe được "tiếng nói của chơn ngă" tức "vô ngôn chơn thuyết".

 

-  Ư niệm là hiện thể của Vô niệm, Vô niệm là tự thể của Ư niệm, nếu chứng được chính ngay bản thân của Ư niệm cũng là Vô niệm, thời biết được "Tự Thể Nội Tâm" tức "vô duyên chơn tâm".

 

-  Đọc được VÔ TỰ CHƠN KINH, nghe được VÔ NGÔN CHƠN THUYẾT, biết được VÔ DUYÊN CHƠN TÂM đều cùng một bản chất như nhau.

 

-  CHƠN là tự thể của VỌNG, Vọng là hiện thể của Chơn. Nếu chứng được chính ngay bản thân của Vọng cũng là CHƠN, thời "Phật tính thể hiện".

 

-  TRƯỢC là hiện thể của THANH, Thanh là tự thể của Trược. Nếu chứng được ngay chính bản thân của Trược cũng là Thanh, thời đạt đến cực Thanh, cực Tịnh, cực An Lạc.

 

-  Hữu vi là hiện thể của Vô vi, Vô vi là tự thể của Hữu vi. Nếu chứng được chính ngay bản thân của Hữu vi đă là Vô vi rồi, thời đạt đến "Hư Không" tức "Diệu Hữu chơn thông".

 

-  Chúng sanh vốn KHÔNG, làm sao chư Phật CÓ được? Luân Hồi vốn KHÔNG, làm sao Niết Bàn CÓ được? Dục tính vốn KHÔNG, làm sao Phật tính CÓ được? Vô minh vốn KHÔNG, làm sao Giác ngộ CÓ được? Sai vốn KHÔNG, làm sao đúng CÓ được? Thiện vốn KHÔNG, làm sao ác CÓ được? Tà vốn KHÔNG, làm sao Chánh CÓ được? Vật vốn KHÔNG, làm sao Tâm CÓ được? Trược vốn KHÔNG, làm sao Thanh CÓ được? Hữu vi vốn KHÔNG, làm sao Vô vi CÓ được? Trói buộc vốn KHÔNG, làm sao Giải thoát CÓ được? Chơn lư vốn KHÔNG, làm sao Thượng Đế CÓ được?