Tứ Đại Pháp Kinh

Nhân Duyên Pháp

 

                    NHÂN, THẦN, THÁNH, TIÊN, PHẬT

                    DUYÊN may tại thế gian

                    PHÁP đạo vô thượng đạo

                    giảng cứu trần hoàn

 

NHÂN: là công năng tạo tác, c̣n gọi là công năng chính

 

DUYÊN: là năng lực hỗ trợ, c̣n gọi là công năng, phụ

 

Các pháp h́nh thành từ bởi công năng tạo tác và những năng lực hỗ trợ phụ vào, cho kết quả nhanh, chậm, tốt, xấu, thiện, ác, đúng, sai... đều gọi là NHÂN  DUYÊN  PHÁP.

 

Bởi v́ các pháp này h́nh thành từ LƯ NHÂN  DUYÊN, nên nó KHÔNG CÓ THẬT, chỉ có tạm thời cho đến khi Nhân tiêu Duyên cạn th́ nó biến mất.

 

NHÂN  DUYÊN  PHÁP có ba loại:

                        - Nhân duyên pháp tự nhiên

                        - Nhân duyên pháp xă hội

                        - Nhân duyên pháp tâm linh

 

NHÂN DUYÊN PHÁP TỰ NHIÊN là các pháp h́nh thành từ các yếu tố trong thiên nhiên. Các hiện tượng như mưa, gió, băo, nắng... đều được gọi là Nhân Duyên Pháp Tự Nhiên. Mưa là do hơi nước gặp lạnh, tụ lại thành giọt, rơi xuống thành mưa. Đến khi khối lượng mây tan ra nước, rơi xuống hết th́ cơn mưa chấm dứt. Băo, gió, nắng... cũng vậy.

 

NHÂN DUYÊN PHÁP XĂ HỘI là các pháp h́nh thành từ các yếu tố trong đời sống xă hội, mà sinh động nhất là xă hội loài người. Các hiện tượng cây to che rợp cây nhỏ, cá lớn nuốt cá bé, thú hung dữ ăn thịt thú hiền; thực thế, kẻ trí phỉnh gạt người ngu, chiến tranh loạn lạc, bệnh hoạn lầm than, đói rách khổ nạn... diễn ra hằng ngày mà các con chứng kiến dưới cơi hồng trần, đều thuộc về Nhân Duyên Pháp Xă Hội.

 

Ví như, hiện tượng chiến tranh là do xung đột (NHÂN) về quyền lực, chính trị, về quyền lợi kinh tế, về tranh giành ảnh hưởng văn hóa, giáo dục... giữa các khối, các nước mà không giải quyết bằng cách thương lượng đàm phán. Tất cả sẽ đưa đến giải quyết bằng vũ lực (DUYÊN) lôi kéo hàng vạn triệu sinh linh vào nghiệp SÁT (QUẢ). Đến khi chém giết hả hê, ghê tởm, chán ngán rồi, giải quyết mâu thuẩn chính trị, kinh tế... được rồi thời trở lại trạng thái thanh b́nh tạm thời để chờ những cuộc chiến tranh khác.

 

NHÂN DUYÊN PHÁP TÂM LINH là các pháp h́nh thành từ ngoại cảnh (công năng hỗ trợ) và nội tâm (công năng tạo tác). TÂM và PHÁP nương nhau, phản ảnh lẫn nhau mà thành. Các hiện tượng tham lam, buồn chán, nóng giận, si mê, kiêu ngạo, đố kỵ, khinh ghét, tỵ hiềm, phân biệt, chia rẽ, chấp ta ngă mạn... dẫn đến phân loại màu da, phân biệt giai cấp, chủng tộc, phân rẽ tôn giáo... khiến xă hội băng hoại, điêu đứng, lầm than bế tắc... không t́m đâu ra lối thoát. Thế nên, CHA sẽ hướng dẫn cho các con thấy con đường đi lên một cách sáng suốt để các con tu học (sửa các điều sai lầm về việc làm). Càng ngày càng tiến bộ hơn, càng lúc càng tiến hóa đến chỗ chơn chánh đúng với các đạo lư hơn.

 

Trước khi hệ thống hóa giáo lư, CHA tạm nhắc lại các điều dạy của các vị giáo chủ của các tôn giáo cổ, thăng tiến lên và phát triển ra để cho các con thấy rằng, các vị đó đều là những PHÂN THÂN ĐIỂN QUANG của CHA xuống thế vào các thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau, để d́u dắt hướng dẫn các tiểu hồn cho đi lên cơi sáng suốt an lạc. Thế nên, các vị đó cũng là CHA đóng vai đó thôi.

 

                        PHẬT cũng TA, mà LĂO cũng TA

                        Khổng đạo, Gia Tô vốn một nhà

                        Bà La Môn, Hồi Giáo, Thông Thiên học

                        Cũng từ một gốc: THƯỢNG ĐẾ ra.

 

  Các điều dạy của KHỔNG PHU TỬ tức Đức Văn Tuyên Khổng Thánh mà các con bên đạo nhân thường cúng thờ, có thể tóm tắt thành các điều chính sau đây:

     -  Cách vật, trí tri, chánh tâm, thành ư, tu thân, tề gia, trị quốc,

          b́nh thiên hạ

     -  Tam cương, ngũ thường, tam ṭng, tứ đức

 

     •  CÁCH VẬT: thường quán sát sự vật.

     •  TRÍ TRI: là nghiên cứu tự gốc rễ căn nguyên của vạn hữu.

     •  CHÁNH TÂM: là thanh lọc cho tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm tà

         đạo.

     •  THÀNH Ư: là rèn luyện ư chí cho dũng mănh, kiên nhẫn.

     •  TU THÂN: là sửa những điều sai lầm về thân mạng.

     •  TỀ GIA: là điều ḥa những xung đột, mâu thuẫn trong gia đ́nh, gia

         tộc.

     •  TRỊ QUỐC: là cai trị nhân dân trong nước theo đường lối chân

         chính, an bang tế thế, an cư lạc nghiệp.

     •  B̀NH THIÊN HẠ: là mang lại an lạc thanh b́nh cho nhân loại.

 

Phần đông các con chê Khổng giáo quê mùa, cũ kỷ không thích hợp với thời đại văn minh nguyên tử. Nhưng thử hỏi có con nào thời mạt pháp này làm y theo các lời dạy của nó? Số thực hiện được thời rất ít. C̣n số nào chưa làm được thời hăy thức tỉnh thực hiện đi. Để chuẩn bị đón nhận pháp của CHA soi sáng cho tiến lên. Muốn thực hiện được công việc vĩ đại, trước hết các con phải thực hiện công việc nhỏ, tập sự cho quen, rồi tiến sang những công việc lớn hơn, nặng hơn, khó nhọc hơn, gian khổ hơn.

 

Những công việc đó là:

 

Tam Cương:   TRUNG - KÍNH - HIẾU

     •  TRUNG: là không phản bội lại vua, lại nước, lại dân.

     •  KÍNH: là biết tôn trọng các bậc thầy đă dạy để hướng dẫn con nên

         người.

     •  HIẾU: là biết nhớ ơn và đền đáp lại công ơn sinh thành, dưỡng dục

         của cha mẹ, ông bà, tổ quốc.

 

Ngũ Thường:   NHÂN, LỄ, NGHĨA, TRÍ, TÍN

     •  NHÂN: là ḷng thương người, thương vật

     •  NGHĨA: là ḷng đối xử đền ơn đáp nghĩa với người, với vật.

     •  LỄ: là sự thể hiện tôn nghiêm, thật sự trong ư nghĩ, lời nói và hành

         động.

     •  TÍN: là không lường gạt, dối gạt, phỉnh gạt lẫn nhau.

     •  TRÍ: là biết xét đoán điều đúng, điều sai.

 

Tam Ṭng:   T̉NG PHỤ - T̉NG PHU - T̉NG TỬ

     •  TẠI GIA T̉NG PHỤ: ở nhà theo cha.

     •  XUẤT GIÁ T̉NG PHU: xuất giá theo chồng.

     •  PHU TỬ T̉NG TỬ: chồng chết theo con.

 

Tứ Đức:   CÔNG - DUNG - NGÔN - HẠNH

     •  CÔNG: chăm làm.

     •  DUNG: gọn gàng, sạch sẽ thân thể.

     •  NGÔN: đoan chánh, trang nghiêm trong lời nói.

     •  HẠNH: ngay thẳng, nghiêm chỉnh trong việc làm.

 

Các điều dạy này giúp các con tập sự thực hành theo nhân đạo cho có căn bản, rồi theo đà đó các con phát triển, tiến hóa thêm lên để hiệp nhứt với CHA, tức Đại Hồn Vũ Trụ.

 

Các con tập sự TRUNG với vua tức thiên tử. Thiên tử c̣n có nghĩa là con Trời. Trời là Cha, tức Đại Hồn Vũ trụ, là Đại Thiên Địa. Con Trời là con Đại Hồn Vũ Trụ, tức là Tiểu hồn chúng con đó. Từ chỗ TRUNG với CHA ở bên ngoài, con quay trở lại con TRUNG với chính con. V́ chính con mới là Thiên tử (con Trời) là vua cai quản Tiểu Thiên Địa, tức bản thể của con!

 

Tu thân, Tề gia, Trị quốc, B́nh thiên hạ: tức là con cải sửa những điều sai lầm về thân mạng (không sát sanh, trộm cắp, tà dâm...) công phu luyện đạo để giúp cho căn nhà bản thể, tức Tâm Linh gia được điều ḥa trong sạch. Đó là tề gia trong Tiểu Thiên Địa, chế ngự lục căn lục trần, thất t́nh chẳng khởi đắm, lục dục chẳng thâm nhiễm, không cho chúng nổi lên làm loạn, khảo đảo con, tức trị Quốc. Con có kềm chế dân trong nước con cai trị, d́u dắt hướng dẫn nó (lục căn, lục trần, thất t́nh, lục dục...) đi lên cơi sáng tức là con đă đưa nước con từ loạn quốc sang An Lạc Quốc, tức Xá Vệ Quốc vậy.

 

Khi dân trong nước con đă trị được rồi, thời con phải tiến lên giai đoạn độ hết tất cả chúng sanh trong Tiểu thiên lục địa: Tham, Sân, Si, Hỷ, Nộ, Ái ,Ố, Dục, Mạn, Nghi, Thân kiến, Biện kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, Tà kiến, Sát, Đạo, Dâm, Vọng ngữ, Ư ngữ, Lưỡng thiệt, Ác khẩu, Hà Tiện, Ghen ghét, Lười biếng, Đố kỵ, Tỵ hiềm, Phân biệt, Chia rẽ... để chúng nó được sáng suốt, an lạc như con, giúp con mau tiến hóa về hiệp nhứt với Thượng Đế, tức Chơn lư Tối thượng vậy.

 

Từ chỗ thực tập ngũ thường, trong nhân đạo đă quen, đă có căn bản, con phải thăng tiến nó lên. Từ t́nh thương cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, bà con thân tộc, đến t́nh thương giữa người với người, cho đến giữa người và vật, thành t́nh thương vô cùng tận, thương hết thảy chúng sanh, không phân biệt thấp, cao, đẹp, xấu, giàu, nghèo, sang, hèn, ngu, trí, thanh, trược, loài vô t́nh, loài hữu t́nh ở cơi hữu vi lẫn cơi vô vi... tức là t́nh thương của Thượng Đế vậy.

 

Tương tự như thế, các con phát triển Nghĩa, Lễ, Trí, Tín cho đến vô cùng tận.

 

Từ chỗ tập sự Tứ Đức trong Đạo Nhân, con tiến sang giai đoạn thực hiện Tứ Đức theo Thiên đạo. Ở nhà theo CHA, nghĩa là các con đều ở trong căn nhà Đại Bản Thể của CHA, phải theo CHA, tức nghe lời CHA khuyên bảo, là siêng năng tu tiến, để kịp dự kỳ Đại Hội Long Hoa. Xuất giá ṭng phu, hay ra khỏi nhà theo chồng, chồng con là ai? Các con biết không? Người chồng thực sự của con chính là Hồn, c̣n vợ là Vía. Các con phải cố gắng t́m cho được người chồng (hoặc vợ) bằng cách công phu luyện đạo cho âm dương hiệp nhứt, hồn vía tương hội, để hai phần này không c̣n xa nhau nữa, khiến các con quay ra t́m kiếm bên ngoài, lăn lộn trong bể sanh tử, luân hồi, đau thương, khổ năo. Chồng chết theo con có nghĩa là: sau khi âm dương hiệp nhứt, dục vọng kiểu trược trần tiêu mất, ư niệm vợ chồng đă chết hẵn trong tâm thức của con người. Giờ đây, con phải xuống trần gian để d́u dắt các con của con, những tiểu hồn c̣n khờ dại đắm nhiễm mê trần, vươn lên tu tiến đặng trở thành như con vậy.

 

Từ chỗ chăm làm (công) những việc theo kiểu trần. Giờ đây các con phát triển thành các công việc làm theo đạo giải thoát, tức tinh tấn tu học, tu hành.

 

Từ chỗ ham mê trau chuốt, tô điểm cho sắc đẹp thân thể, các con tiến sang tô bồi cho sắc đẹp tinh thần tức thực hiện t́nh thương bằng các việc thiện lành cao cả.

 

Từ chỗ nói (ngôn) những lời thật thà ngay thẳng mang lại sự ḥa ái cho mọi người, con tiến sang nói những lời mặc khải, huyền diệu, để khai tâm mở trí cho mọi chúng sanh thức tỉnh tu học đạo.

 

Từ chỗ làm việc thiện lành nhỏ, đoan chính trang nghiêm, các con phải phát triển thành những việc làm vĩ đại, thuyết giảng đạo lư thống nhất nầy cho quần sanh nghe theo đặng tu học cho kịp ứng thi chung kết của Đại Hội Long Hoa kỳ Ba, tức cơ phán xét sau cùng.

 

Để tiến hóa kịp đà tiến hóa của Càn Khôn, các con không bỏ đạo Khổng, mà phải thăng hoa phát triển các điều dạy của Khổng thành vô cùng tận, để trở về hiệp nhứt với Thượng Đế.

 

  C̣n LĂO TỬ thời dạy lư huyền cơ, lẽ bí nhiệm, tức sự vận chuyển của bộ máy âm dương trời đất theo DỊCH LƯ CÀN KHÔN.

 

Dịch lư âm dương tuy đơn giản, nhưng rất thâm diệu cao siêu. Theo dịch lư: Vô Cực sinh Thái Cực, Thái Cực phân hai thành Lưỡng Nghi. Lưỡng Nghi biến thành Tứ Tượng, Tứ Tượng hóa thành Bát Quái, rồi phân tán ra vạn thù. Xong lại trở về MỘT tức Thái Cực, Thái Cực lại hoàn Hư, tức Vô Cực. Vô cực là thể vô h́nh, vô tướng, không sinh, không diệt, hằng hữu đời đời.

 

LƯ VÔ CỰC là TỐI CỰC LƯ. Muốn ḥa vào Hư không vô cực tính, các con phải theo đúng lời dạy của Lăo là lư Vô Vi, tức vô Cầu, vô Tranh, vô Đoạt, vô Chấp.

 

     •  VÔ CẦU: giúp các con vô vọng, tức xa ĺa vọng tưởng điên đảo.

     •  VÔ TRANH: giúp các con vô bại, tức ĺa xa ư tưởng hơn thua, cao

         thấp.

     •  VÔ ĐOẠT: giúp các con vô thủ, tức ĺa xa ư niệm c̣n mất, có

         không.

     •  VÔ CHẤP: giúp các con vô ngại, tức xa ĺa tư tưởng trượt thanh,

         thường ngă.

 

Lư vô vi hết sức huyền diệu, cao viễn, nên rất ít ai hiểu nổi, thành ra dễ bị thất truyền. "Vô vi tức Đạo, Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi". Không làm tức Đạo. Đạo thường không làm, nhưng không ǵ không làm! Từ chỗ không làm mà Đạo làm ra tất cả, làm ra tất cả mà như không làm ǵ cả. Đây là bí quyết của Đạo mà các con phải thâm cứu để làm.

 

Thực hiện theo DỊCH LƯ, tức con phải luyện KIM ĐƠN để gom TINH – KHÍ - THẦN về một, tức Thái cực, rồi Thái Cực các con phải nhanh luyện tiếp để xả hết đặng ḥa vào Hư Không tức Vô Cực.

 

Luyện KIM ĐƠN tức luyện Tánh (chứ không phải luyện thuốc như trong truyện Tàu thường nói), luyện cho được tánh KIM CANG BẤT HOẠI, gặp động không loạn, gặp tịnh không lặng, vào trần không nhiễm, nhập Niết Bàn không diệt, định mà không chết cứng, đi đứng nằm ngồi mà như không đi đứng nằm ngồi. Thuyết giảng Đạo pháp mà như không thuyết giảng Đạo... tức là các con đă nhập thể được LƯ VÔ VI vậy.

 

Muốn luyện được tánh Kim Cang bất hoại các con phải luyện cả hai cùng một lúc, tức "tánh mạng song luyện" c̣n gọi là "TU TÁNH LUYỆN MẠNG", theo nguyên lư phản hồi.

 

     •  Nếu TÂM định, Ư tịnh, Trí toàn thời TINH TRONG, KHÍ

         THANH, THẦN SÁNG.

     •  C̣n TÂM dịch, Ư động, TRÍ phân th́ TINH đục, KHÍ trọc,THẦN

         mờ.

 

Bởi thế, muốn luyện MẠNG cho mau kết quả, con phải Nhíp Tâm, Định Trí, Ǵn Ư, Bế Ngũ Quan, siêng năng tinh tấn, công phu luyện Đạo, hành pháp luân cho lâu, Thiền định cho tốt. Điều này làm cho TINH TRONG, KHÍ THANH, THẦN SÁNG, giúp con khỏe mạnh, cả thể xác lẫn tinh thần, mau tiến về cơi sáng.

 

Đó là phần NỘI LUYỆN, c̣n phần NGOẠI CHẾ tức TU TÁNH, là ngăn ngừa sự xâm nhập của trần cảnh, quyến rủ con trôi lặn trong ṿng sanh tử, bằng TAM TỤ TỊNH GIỚI, tức là GIỚI, ĐỊNH, HUỆ.

 

     •  GIỚI: đừng phát khởi các tâm niệm ác, nói các điều ác, làm các

         việc ác; thường phát khởi các tâm niệm thiện, nói các điều thiện, làm

         các việc thiện.

     •  ĐỊNH: không để tâm ư buông lung theo ngoại cảnh: tham, sân, si,

         hỷ, nộ, ái, ố, dục... theo trần cảnh.

     •  HUỆ: thường quán tưởng các điều dạy của Phật, Chúa, Lăo và

         CHA, để mở trí sáng suốt.

 

  Về phần giáo lư của PHẬT quá nhiều, các con khó mà nghiên cứu tham học hết được. Ba tạng kinh điển bao gồm cả vạn quyển, đó là chưa kể thất lạc, thiếu sót, được phân tán trong mười tông phái (từ Thiền tông đến Tịnh Độ tông).

 

Trong mười tông phái này có bốn tông căn bản c̣n hoạt động là: Thiền tông, Luật tông, Duy Thức tông, Tịnh Độ tông.

 

     •  TỊNH ĐỘ TÔNG: chủ trương tu Phước, tức niệm Lục Tự A DI

         ĐÀ.

     •  DUY THỨC TÔNG: c̣n gọi là Pháp Tướng tông, chủ trương tu

         Huệ.

     •  LUẬT TÔNG: nặng về giới luật.

     •  THIỀN TÔNG: chủ trương tham cứu thẳng, tức trực chỉ thiền đốn

         ngộ chơn tâm kiến tánh thành Phật.

 

Tuy phân chia thành mười tông, nhưng thật sự trong mỗi tông chịu ảnh hưởng phương pháp tu của các tông khác.

 

Phần đông các con c̣n mê chấp, cho rằng ba tạng kinh điển của Phật là Thiên kinh vạn quyển ở bên ngoài các con. Chứ thực sự, các con đâu có ngờ rằng nó có ngay trong Tiểu hồn các con, mà xưa kia Phật chỉ mật truyền cho các đệ tử tiến hóa cao của Ngài mà thôi.

 

Thực ra, ba tạng kinh điển này vừa ở ngoài các con mà cũng vừa ở bên trong các con.

 

Ở bên ngoài các con là ba tạng: KINH, LUẬN, LUẬT; c̣n bên trong các con là: TẠNG TÂM, TẠNG TRÍ, TẠNG Ư.  Phật là bậc Đại Giác nên ba tạng kinh của Ngài rất lớn. C̣n các con đang tu hành nên ba tạng của các con nhỏ hơn. Giờ đây, các con tinh tấn tu hành để phát triển cho bằng ba tạng kinh của Phật.

 

     •  KINH là tạng TÂM của PHẬT, tức thể BI của Càn Khôn.

     •  LUẬN là tạng TRÍ của PHẬT, tức thể TRÍ của Càn Khôn.

     •  LUẬT là tạng Ư của Phật, tức thể DŨNG của Càn Khôn.

 

Các con bên Phật giáo, lâu nay cứ ngờ rằng, học hết ba tạng kinh điển, tức thu nhận được chân truyền y bát của Phật, chứ các con đâu có ngờ rằng, đó chỉ là lớp vỏ h́nh thức ở ngoài. Xưa, Tỳ kheo Thiên Tinh giảng hết ba tạng kinh điển mà bị đọa địa ngục, A Nan nhớ hết ba tạng kinh điển mà vẫn bị nạn Ma đăng già, đến nỗi khi được Phật cứu, bị Phật quở trách: "Ông chỉ mạnh nhớ, nghe nhiều chứ không tu".

 

Huống chi ngày nay, các con lem nhem vài ba chục quyển kinh đă cho là hiểu Phật, thông pháp?

 

Muốn học thuộc ba tạng kinh điển đó, các con phải thường xuyên công phu, công quả, công tŕnh.

 

     •  CÔNG PHU: Tức siêng năng hành pháp luân thường chuyển vào giờ tư mỗi đêm, để thâu rút thanh khí điển của trời đất vào thanh lọc bản thể, quy tam bửu, hiệp ngũ khí, quy tam thức, hiệp ngũ quan cho bản thể thanh tịnh, tâm ư không không, sớm mở được huệ trí, đặng rút ngắn con đường trở về nguồn cội, thấy được bản thể diện mục, tức Chánh Pháp Nhăn Tạng Niết Bàn, diệu tâm, thực tướng, vô tướng mà Phật đă nhủ truyền cho ông Ma Ha Ca Diếp sau khi cầm một nhánh hoa đưa qua đưa lại trước 3000 môn đệ và đồ chúng tại núi Linh Thứu khi mở Hội Pháp Hoa. Từ Ma Ha Ca Diếp truyền cho đến Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma bên Ấn Độ. Sau Đạt Ma sang Trung Hoa truyền cho năm vị Tổ kế tiếp cho đến Huệ Năng thời phát triển rực rỡ, tạo nên Tôn phái trực chỉ Thiền Đốn Ngộ chơn tâm kiến tánh thành Phật.

 

     •  CÔNG QUẢ: là thực hiện t́nh thương, giữ ǵn giới luật, d́u dắt những đứa con mê lầm, đắm nhiễm, vào Đạo tu học, tu hành sớm thoát khỏi cơi đời trầm luân khổ ách.

 

     •  CÔNG TR̀NH: là phát triển ư chí cứu khổ, đóng góp vào cơ chuyển pháp, dẫn dắt chúng sanh vào cơ tái tạo, tức Ngươn Thánh Đức, bằng in thêm Kinh của CHA và của các vị Giáo chủ các Tôn Giáo để phổ truyền trong quần chúng, càng ngày càng sâu rộng, việc làm này vừa giúp các con tiến hóa, ḥa đồng tu học, ḥa đồng chung sống cho kịp kỳ ứng thí Long Hoa.

 

Nhân bàn về kinh, CHA giảng thêm để các con rơ các loại kinh đặng mà tu học cho khỏi nhầm lẫn. Kinh có ba loại: kinh điển, kinh sách và kinh truyện.

 

     •  KINH ĐIỂN: là các lời giảng của các vị đắc đạo, tự sáng tác được kinh. Chỉ các con tu cao, có điển mới hiểu nổi, như kinh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Duy Ma Cật... của Thích Ca trước kia, hay Kinh A Di Đà của Tư Đỗ Thuần Hậu ngày nay. Kinh loại này giảng bằng mật điển nên người phàm khó mà hiểu.

 

     •  KINH SÁCH: là những lời bàn, những lời sám hối do các linh hồn tiến hóa cao soạn ra, để giúp các con chưa thức tỉnh hoặc ở tŕnh độ thấp tu hành như Thủy Sám, Lương Hoàng Sám, Thiền Luận của Suzuki, Phật học phổ thông ở các nước, Tứ thư Ngũ kinh của Khổng, sách Yoga...

 

     •  KINH TRUYỆN: là những lời kể được ghi thành truyện, mang ư nghĩa đạo lư tu hành. Đa số các kinh này đều do các vị Bồ Tát hoặc Đại Tiên ẩn thân xuống thế soạn ra cho chúng sanh, vừa giải buồn, vừa chiêm nghiệm ư nghĩa sâu xa như truyện Quan Âm Thị Kính, Tây Du diễn nghĩa, Phong Thần.

 

Truyện Quan Âm Thị Kính: là một bài học giúp các con tiến hóa cao mở hạnh Bồ Tát, cứu khổ ban vui cho chúng sanh, y như hạnh nguyện của Quan Thế Âm Bồ Tát.

 

Quan Thế Âm Bồ Tát có hai đệ tử là Thiện Tài và Huệ Ngạn có thật trong Càn Khôn. Đây là lực Bi của Càn Khôn thường cứu độ chúng sanh, đưa chúng sanh từ mê lầm sang thức giác tu tiến đồng thời cũng có trong các con.

 

Các con có hai đứa đệ tử như Bồ Tát Quan Thế Âm, nhưng các con chưa biết dạy dỗ điều khiển chúng theo ư con được.

 

Một đứa tên Thiện Tài, có nghĩa là giỏi làm việc lành để cứu khổ cho chúng sanh (Thiện là việc lành, Tài là giỏi).

 

Đứa kia tên Huệ Ngạn, có nghĩa là d́u dắt chúng sanh sang bờ giác (Huệ là trí tuệ siêu việt, Ngạn là bờ).

 

Giờ đây hiểu rồi, các con vươn lên làm chủ bản thể, điều khiển hai đứa đệ tử này siêng năng cứu độ chúng sanh trong bản thể cho chúng khỏi khổ năo bởi sự lôi cuốn của cảnh trần và kéo chúng lên cơi sáng suốt đi con.

 

Khi chúng sanh trong bản thể (lục căn, lục trần) đă hết khổ, đă sáng suốt rồi các con quay trở ra cứu khổ ban vui, d́u dắt chúng sanh ngoài bản thể, tức các Tiểu hồn c̣n ngu si mê chấp, có ư thức vươn lên, nắm quyền cai trị lại lục căn, lục trần, đừng để nó lôi kéo vào ṿng luân hồi sanh tử nữa. Thế rồi cứ tiếp độ cho nhau thành một lực lượng hùng hậu. Bởi v́ mỗi tiểu hồn tiến hóa cao, đều có khả năng mở hạnh nguyện trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát, để đóng góp lực Bi của Càn Khôn ngày càng lớn mạnh.

 

C̣n truyện Phong Thần: diễn tả lịch sử thời xa xưa, nhưng có thật chứ không phải viễn tưởng như các con nghĩ đâu. Nó diễn tả sự đấu phép giữa các lực trược và thanh của Càn Khôn. Cuối cùng, khối trược bị khối thanh đè bẹp và được d́u dắt tiến hóa đi lên. Các vị đó ngày nay đă nhận lănh các chức vị CHA ban để phụng sự cho cơ tiến hóa của Càn Khôn như: Thái Thượng Lăo Tổ, Ngươn Thỉ Thiên Tôn, Thông Thiên Giáo Chủ, các con nào chưa đọc nên t́m đọc, đọc rồi nên đọc lại để nhớ lại mà nghiền ngẫm tu hành.

 

Đặc sắc nhất là bộ Tây Du Diễn Nghĩa, tức truyện Tề Thiên Đại Thánh, được CHA cho phép xuất bản xuống thế gian để độ các linh hồn lười biếng học đạo, chỉ ham mê tiểu thuyết. Đây là bộ truyện mà hầu như khắp thế giới, từ trẻ đến già, từ trai chí gái đều được biết đến, qua truyện bằng tranh, bằng chữ. Đến nỗi được dựng thành phim để giải trí cho quần chúng sau những giờ mỏi mệt trong công việc.

 

Đây là một quyển kinh được một vị Tiên ẩn thân xuống thế sống như người trần sáng tác bằng một thể tài tuyệt diệu gọi là truyện, truyện này diễn tả cuộc hành tŕnh dài đăng đẳng về phía tây phương của bốn thầy tṛ Tam Tạng đi thỉnh kinh của Phật về độ chúng sanh tu hành. Cha sẽ lư giải để cho con hiểu rơ mà đối chiếu qua tiểu hồn con để tu hành.

 

Tam Tạng đi thỉnh kinh (Kinh này là Vô Tự Chơn Kinh) có nghĩa là đem ba tạng: TÂM TRÍ Ư để cầu Phật tánh tức Vô Tự Chơn Kinh. Đường Tăng tượng trưng cho TÂM các con, Tôn Ngộ Không (Tề Thiên) tượng trưng cho TRÍ các con, Sa Tăng tượng trưng cho Ư các con, Bát Giới tượng trưng cho ngũ quan các con, con ngựa Tam Tạng cỡi tượng trưng cho xác thân tứ đại của các con.

 

Trong quá tŕnh đi thỉnh kinh ấy, các con thấy rằng Tề Thiên qua lại xứ Phật hoài mà chưa giải thoát, mà phải qua hết thảy bốn thầy tṛ và cả con ngựa nữa. Cầu được kinh rồi, mở ra toàn là giấy trắng, tức là Vô Tự Chơn Kinh tượng trưng cho chơn lư tối thượng không thể nghĩ bàn! Sau khi cầu được kinh rồi, tượng trưng cho sự đắc quả, bốn thầy tṛ bỏ xác phàm trôi theo gịng sông, c̣n lại phần chơn thần (tức Phật tánh) bay về quê xưa chốn cũ trong nháy mắt.

 

Trong quá tŕnh ấy, các con thấy Bát Giới ham ăn, ham uống, ham ngủ, ham rượu ngon, gái đẹp... tượng trưng cho ngũ quan của các con tham đắm trần cảnh, ham mê ngũ dục. Sa Tăng th́ không đủ sức khuyên nhủ Bát Giới bớt nhiễm đắm trần cảnh, để phụng sự tốt cho cuộc thỉnh kinh, đến nỗi để cho Bát Giới muốn làm sao th́ làm, tượng trưng cho sức yếu hèn. Ư thức của các con không đủ ư chí để điều khiển ngũ quan. Tề Thiên th́ lăng xăng xông xáo, hoạt động không ngừng, tượng trưng cho sự suy nghĩ lung tung trong trí các con. Tam Tạng th́ hễ một chút là niệm "Cẩn Cô" làm cho Tề Thiên nhứt đầu muốn chết, rồi lại niệm "Ṭng Cô" cho khỏi nhứt đầu, tượng trưng cho Tà niệm và Chánh niệm trong tâm thức các con.

 

Tâm chánh niệm (niệm Ṭng Cô) an trụ, thời trí con được thảnh thơi, an lạc. Tâm tà niệm (niệm Cẩn Cô) nổi lên, làm cho trí con đau khổ v́ vọng cầu vọng tưởng.

 

CHA lư giải những điều căn bản và cần thiết mà thôi. Con nào muốn hiểu sâu xa hơn, thời t́m đọc lại bộ Tây Du Kư để nghiền ngẫm tu hành.

 

Nhân nói về ba tạng: TÂM-TRÍ-Ư, CHA nhắc lại các con bên cấp Phật nhớ rằng không phải chỉ thờ kính Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng mà các con được giải thoát đâu nghe con!

 

Tôn kính Tam bảo có hai cách:

 

     •  Thờ lạy tượng cốt, cúng dường in kinh, cúng dường Tăng chúng, là giai đoạn tập sự cho những con người mới từ đạo Nhân tiến qua, để rèn luyện ḷng trang nghiêm, bụng rộng răi, dạ thoát trần. Đây chỉ là h́nh thức hữu vi bên ngoài. Muốn thực sự cúng dường Tam bảo, các con phải thực hiện theo cách vô vi thứ hai, th́ mới mong sớm được giải thoát.

 

     •  Thờ Phật-Pháp-Tăng chính là thờ TÂM-TRÍ-Ư của các con đó! V́ Tâm con mới là hạt giống Phật, Trí con là hạt giống Pháp, Ư con là hạt giống Tăng. Nếu con thức tỉnh tu hành, có ư thoát ra khỏi sự ràng buộc của bể luân hồi sinh tử, thời con phải siêng năng tinh tấn, công phu luyện đạo, để mở trí thực hiện t́nh thương không biết mệt mỏi, để khai tâm d́u dắt, hướng dẫn anh em đồng đạo cùng nhau tu tiến, để luyện ư. Nói chung các con phải phát triển BI-TRÍ- DŨNG cho đến vô cùng tận, đừng để chúng dậm chân tại chỗ làm tŕ trệ sự tiến hóa của linh hồn con trong cuộc thi nước rút dự kỳ chung kết Đại Hội Long Hoa kỳ Ba đă mở màn tại thế gian.

 

  C̣n bên THIÊN CHÚA GIÁO, Đức CHÚA CON theo lệnh CHA thị hiện xuống trần, vừa sống như người trần gian, vừa sống một cách siêu nhiên, thuyết giảng đạo lư mặc khải, và làm các phép lạ nhiệm mầu để làm gương cho các con noi theo tu học, đặng biết ăn năn sám hối, bỏ ác làm lành, tránh vi phạm bảy mối tội đầu và mười điều răn của Chúa:

 

     •  Bảy mối tội đầu:  

        1- Kiêu ngạo

        2- Hà tiện

        3- Dâm dục

        4- Hờn giận

        5- Ham ăn uống

        6- Ghen ghét

        7- Lười biếng

 

     •  Mười điều răn:

        1- Thờ kính Đức Chúa Trời trên hết

        2- Tôn kính danh Chúa, nhân danh Chúa, mà thờ nguyện, tin và làm

            theo lời Chúa dạy

        3- Thánh hóa ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc

        4- Thảo kính cha mẹ

        5- Giữ ǵn thân mạng của ta và của người khác

        6-9- Trong sạch tư tưởng, lời nói và việc làm

        8- Tôn trọng sự thật và danh giá của kẻ khác

        7-10- Công bằng và tôn trọng của cải của người khác

 

Y theo các lời dạy này mà sống, tức là con đă tạo cho ḿnh có căn bản để phát triển ba điều cần thiết: Bác ái, Minh triết và Ư chí; ba điều nầy tương tự như Bi-Trí-Dũng bên Phật giáo.

 

     •  BÁC ÁI: là biết thương yêu mọi người, mọi vật, ban bố t́nh thương cho nhau, nếu đợi t́nh thương Chúa ban tức các con chẳng hiểu ư nguyện của Chúa như thế nào cả.

 

     •  MINH TRIẾT: là sáng suốt vô cùng, các con phải nghiên cứu tu học, nghiền ngẫm các lời dạy mặc khải trong kinh Phúc Âm để mở trí thông minh, khai tâm đạo đức, tiến hóa nhanh trên đường đạo.

 

     •  Ư CHÍ: là thể hiện đức tin không biết mệt mỏi, không rời bỏ Chúa, xa ĺa Đạo, vấp ngă trên đường tu.

 

Chúa xuống thế thu nhận mười hai môn đệ, làm phép lạ đi trên mặt nước. Một con cá, năm cái bánh mà 3000 người ăn không hết, c̣n thừa hai thúng. Cứu người chết sống lại, chết trên Thánh giá, sau ba ngày sống lại và c̣n nhiều phép lạ khác nữa mà CHA không thể kể ra hết được.

 

Các phép lạ nầy mang tính chất mặc khải, mượn h́nh thức hữu vi để ẩn chứa nghĩa lư vô vi mà chỉ có các bậc đắc quả Thánh mới hiểu nổi, chớ người phàm khó mà hiểu được.

 

Hôm nay, Thượng Đế dùng thần Huệ để thiên khải các điều mặc khải này cho các tiểu hồn, con Ngài, phản chiếu qua Tiểu Thiên Địa để tinh tấn tu học, tu hành.

 

     •  Tại sao Chúa chỉ nhận mười hai môn đồ thôi con? Mà không nhận thêm hoặc bớt đi con? Thực ra, điều này Thiên Chúa đă định đoạt sắp xếp trước khi đức Chúa con xuống thế mở đạo cứu đời.

 

Đức Chúa con chính là tiểu hồn con đó, có phải  CHA là Đại Hồn chiết ra các tiểu hồn con, xuống thế để nếm, chứng nghiệm, hiểu biết cho đến vô cùng tận để rồi sau khi đắc đạo vô thượng thấy được "Tỷ thể Thiên Chúa" hay "Phật Tánh" cũng vậy, hầu trở về hiệp nhứt với Đại Hồn Vũ Trụ.

 

Chúa có 12 đệ tử, tượng trưng cho 12 đệ tử trong con, tức là lục căn và lục trần. Có một đệ tử sau phản lại Chúa, để thực hiện cho các con coi chừng, một trong 12 đứa đệ tử của các con (lục căn lục trần) nó sẽ phản lại, nổi lên khảo đảo con, bắt con đắm ch́m trần gian, đam mê trần cảnh, để tŕ trệ sự tiến hóa của con, ngăn chặn con đường trở về hiệp nhứt với Thiên Chúa, tức Đại Hồn CHA đó vậy.

 

Nó phản lại và làm hại Chúa, nhưng rốt cũng vẫn thất bại, c̣n được Chúa ban hồng ân tha tội, nhưng nó xấu hổ quá nên tự tử chết mất. Điều này để các con thấy rằng nếu các con có ư chí vươn lên làm chủ được bọn lục căn lục trần trong bản thể, th́ cuối cùng nó (lục căn lục trần) cũng thất bại đối với con thôi, nhưng con đừng để nó chết đi, mà phải d́u dắt nó đi lên cơi sáng bằng tam công tứ lượng.

 

     •  Chúa đi trên mặt nước biển, là tượng trưng cho phép thần thông tự tại, thoát khỏi sự đắm ch́m trong bể luân hồi sinh tử. Nếu bảo đi được trên mặt nước mà giải thoát, thời con vịt ngược nước và nhiều con vật khác đi được trên nước mà sao không giải thoát được phải không con?

 

     •  Một con cá và năm cái bánh mà các môn đồ cùng 3000 người ăn không hết. Sau khi ăn xong thu lượm các miếng bánh vụn và xương cá dồn lại thành hai thúng, điều nầy mới nghe có vẻ khó tin phải không con?

 

Nếu khó tin thời CHA nói thêm rằng: chẳng những 3000 người thời đó mà hết cả nhân loại ngày nay, ăn cũng không hết luôn con. Nếu nói vậy mà các con cho CHA lộng ngôn, thời CHA cho các con biết, chẳng những cả thảy nhân loại ăn không hết mà hết thảy chúng sinh trong vũ trụ ăn cũng không hết.

 

Giờ đây, chắc các con cho CHA là một thằng đại lộng ngôn, đại ngă mạn, nói chuyện phi lư, một con cá và năm cái bánh mà hết thảy chúng sinh trong vũ trụ ăn không hết.

 

Nếu các con nghĩ thế, thời Cha sẽ nói hết lên đây một sự thật phi thường. Chẳng những chỉ có chúng sanh trong vũ trụ mà tất cả chúng sanh trong hằng hà sa số vũ trụ khắp cả Càn Khôn đă sinh ra, đang sinh ra và sẽ sinh ra ăn cũng không hết luôn con. Sau khi ăn xong thu nhặt lại vẫn c̣n hai thúng to tổ bố luôn con.

 

Một con cá tức tượng trưng cho ư thức trong tiểu hồn con, c̣n năm cái bánh tượng trưng cho năm giác quan: nhăn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân trong tiểu hồn các con.

 

Có phải các con đă dùng một con cá và năm cái bánh này để ăn, vô lượng kiếp đến giờ mà vẫn chưa đă thèm không con?

 

     •  Con mắt: thời ăn h́nh, sắc, ham mê nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con

         ngoan, si mê cuồng loạn, sách vở khiêu dâm...

     •  Lỗ tai: thời ăn âm thanh, thích nghe những lời nịnh hót, lời ca tiếng

         nhạc trong mê muội quay cuồng...

     •  Mũi: thời ăn hương vị, mê các mùi thơm trần tục, dùng dầu thơm để

         xức lên cái thân ô uế bên ngoài...

     •  Lưỡi: thời ăn mùi vị, thèm các món ngon vật lạ, nem công chả

         phụng, rượu nồng dê béo, cà phê, thuốc phiện, trà thơm...

     •  Thân: thời ăn xúc vị, đắm ḿnh trong dục vọng, nam nữ quần là áo

         lượt, phấn son ḷe loẹt...

     •  Ư: thời ăn pháp vị, tham lam, bỏn xẻn, phân biệt, chia rẽ, mưu cầu

         hạnh phúc cá nhân mà quên đi sự đau khổ của đồng loại.

 

Sau khi ăn xong c̣n lại hai thúng: tượng trưng cho tâm thức và tri thức, c̣n gọi là tâm trí và lư trí của các con đó. C̣n phải cái tâm vọng cầu, vọng tưởng và cái trí ngă mạn, tự tôn; đầy nhóc cả hai thúng đến nổi các vị Giáo chủ khuyên đem đổ hoài mà chẳng hết.

 

Những điều mà các con là khó tin, cho là đại lộng ngôn, đại ngă mạn, được Thượng Đế thiên khải thành một sự thật rất khoa học, được che dấu cho đến Hạ Ngươn mạt pháp mới mở ra cho các con hiểu đặng tinh tấn tu hành.

 

     •  Cứu người chết sống lại: tượng trưng cho sự đam mê trần gian, đắm nhiễm trần cảnh, chết theo dục vọng... sống mà quên đi bản thân của chính ḿnh. Đến khi Chúa xuống thế, thuyết giảng Đạo lư cho các con tiếp xúc với giáo lư nhiệm mầu, làm cho các con thức tỉnh cơn mê trầm trọng, sinh động lên, tức sống lại nắm quyền điều khiển bản thể tu hành, chớ không c̣n mê chết theo dục vọng trần gian nữa (phàm sanh tâm, đạo tâm diệt).

 

     •  Chúa chết trên Thánh giá: (phải chết trên Thánh giá mới được), sau ba ngày sống lại.  Khi đó có hai tên tử tội cũng bị treo như Chúa, một đứa tin theo Chúa, c̣n đứa kia không tin Chúa mà c̣n thóa mạ Chúa, lăng nhục Chúa, chửa rủa Chúa để được tha khỏi chết như Chúa.

 

Thánh giá có hai thanh, thanh đứng tượng trưng cho Càn, thanh ngang tượng cho Khôn, Càn Khôn tượng trưng cho âm dương, Trời Đất. Hai thanh giao nhau tượng trưng cho âm dương hiệp nhứt. Chúa chết trên Thánh giá: tượng trưng cho sự chết đi phần phàm ngă, sau khi âm dương đă hiệp nhứt trong tiểu hồn các con.

 

     •  Sau ba ngày Chúa sống lại: là tượng trưng cho sự chết đi Trí, tức ba phàm Trí trong tiểu hồn các con (phàm Tâm, phàm Trí, phàm Ư).  Các con hăy chết đi những ư niệm mơ hồ trong ư thức, chết đi những tư tưởng què quặt trong tri thức và chết đi những vọng cầu, vọng tưởng trong tâm thức th́ con mới bừng lên sống lại hiệp nhứt với Chúa nghe con.

 

      - Một đứa tin theo Chúa, tượng trưng cho chánh niệm, nên được chết theo Chúa, chết đây là chết phần phàm ngă để làm sống lại phần chơn ngă, thời mới được về cơi Thiên Đàng hay Niết Bàn cũng vậy.

 

      - C̣n đứa kia không tin Chúa mà c̣n khinh bỉ Chúa, nên được tha sống ở lại trần gian, tượng trưng cho tà niệm, nên bị luân hồi trở lại thế gian, trầm luân trong khổ đau để trả cho tṛn cái nghiệp mê chấp, mê lầm không tin có Chúa, có Thượng Đế, có chơn lư tối thượng. Chẳng chịu thức tỉnh tu hành, đặng sớm thoát khỏi luân hồi mà về cơi giải thoát.

 

Nhân tiện, lư giải về giáo lư của Chúa, CHA phân tích tại sao sau này, Thiên Chúa giáo lại mọc thêm một nhánh Đạo là Đạo Tin Lành để các con trong hai chi đạo này, khỏi phân biệt chia rẽ nhau nữa, mà sớm qui hiệp để tu hành cho kịp cơ phán xét cuối cùng.

 

Bởi v́ có một số đáng kể các tín đồ bên Thiên Chúa c̣n kẹt trong hữu vi, lấy bụng ta mà suy ra bụng Chúa, mê chấp cho rằng Đức Mẹ đồng trinh mà sao sanh ra được Chúa Giê-Su, điều nầy trái với khoa y học của thế giới hữu vi. Nhận xét này của một số lớn tu sĩ và tín đồ bên công giáo quả thật không sai, với tŕnh độ hữu vi, nhưng các con đâu có biết rằng, đây là phép lạ vô vi không thể nghĩ bàn của Thiên Chúa.

 

Thượng Đế sợ các con đó dùng trí phàm suy luận thấy vô lư rồi bỏ Đạo, uổng công tŕnh tu hành, nên CHA tiếp điển cho một vị Thánh đóng vai linh mục, thay đổi một số điều căn bản trong giáo lư cho phù hợp với tŕnh độ hữu vi đặng lôi kéo một số lớn tu sĩ và tín đồ vào Đạo tu hành.

 

Giờ đây, CHA thử hỏi các con, nếu Đức Mẹ đồng trinh thời ai tu cho con tiến hóa đặng giải thoát khỏi ách trầm luân đau khổ? C̣n nếu giá như Đức Mẹ mất trinh, các con không chịu tu, thời các con có được tiến hóa hay không?

 

Thế nên, dù Đức Mẹ đồng trinh hay mất trinh, thời cũng chính con (nếu muốn tu hành đặng sớm về cơi Thiên đàng giải thoát) phải tiến lên nghiên cứu tu học, và thực hiện t́nh thương theo lời Chúa dạy, đặng rút ngắn con đường trở về, kẻo không c̣n thời gian để tranh căi về sự Đức Mẹ đồng trinh hay mất trinh mà không kịp nữa nghe con.

 

CHA thấy đa số các con bên Thiên Chúa giáo, quá câu nệ vào việc đi nhà thờ xem lễ mà quên rằng: tự tu, tự tiến mới là cần thiết. Đi nhà thờ xem lễ, cũng cần thiết. Nhưng chỉ lúc đầu thôi, sau một thời gian lâu, làm quen với cảnh trang nghiêm của giáo đường, hiểu được giáo lư của Thiên Chúa, tin rằng giáo lư đó dẫn dắt các con đến chỗ thiện lành, sáng suốt và tự nhận thấy đă có căn bản vững vàng, thời nên tu ở nhà tốt hơn, các con chớ ngại rằng: như thế là trái với lời dạy của Thiên Chúa, phạm mười điều răn, mang tội với Chúa.

 

Các con ơi, tội hay không là do chính con tạo điều ǵ làm tŕ trệ sự tiến hóa của con mới là tội, chứ không phải bỏ đi nhà thờ là có tội nghe con! Các con dựa theo tŕnh độ hữu vi xét như thế cũng phải, nhưng CHA sẽ dùng tŕnh độ hữu vi để dẫn chứng cho các con hiểu rơ vấn đề nầy hơn.

 

Con hăy h́nh dung, khi có một đứa em con ra đời, lớn dần khoảng bốn tuổi là cắp sách đến trường, chập chững bước vào con đường học vấn. Đầu tiên đứa bé vào lớp mẫu giáo tập sự học hành, rồi lần lượt tiến sang lớp 1, 2..., để nhường lại chỗ cho những đứa em của nó ra đời sau vào học, nếu nó cứ ngồi ỳ chỗ đó măi tức là tự nó đă tŕ trệ sự tiến hóa của nó, mà c̣n choáng chỗ làm cản trở sự học cho những đứa em ra đời sau nó nữa.

 

CHA mượn sự nầy để ví dụ cho các con thấy rằng: nếu con cứ đi nhà thờ suốt cả cuộc đời con tức là con tự làm tŕ trệ sự tiến hóa của con và c̣n choáng chỗ, làm cho những đứa em của con không có chỗ vào học.

 

Cũng như bên Phật giáo, đi lễ nhà thờ (hoặc đi chùa) là h́nh thức hữu vi tạm thời, tập sự cho con thờ kính Phật, Chúa bên ngoài. Làm phép rửa tội và tập tễnh ê a kinh Phúc âm của Chúa (hoặc kinh A-Di-Đà), đấy là h́nh thức khởi đầu d́u dắt các con từ Nhân đạo bước sang Thánh đạo, Phật đạo vậy.

 

Muốn thật sự thờ kính Chúa ba ngôi, con phải quay trở lại soi vào linh hồn các con:

     •  Ngôi MỘT: là sự minh triết tức là lư trí sáng suốt của con (TRÍ)

     •  Ngôi HAI: sự thực hiện t́nh thương, tức tâm trí bác ái của con (BI)

     •  Ngôi BA: là ư chí cứu khổ, tức ư chí tin tưởng chứng ngộ chơn ư để

         hoằng dương chánh pháp (DŨNG)

 

Ba ngôi nầy, vừa thật có ở ngoài, lại vừa có trong linh hồn các con, tương đương với BI-TRÍ-DŨNG bên Phật giáo.

     •  Tinh tấn tu học để phát triển sự minh triết trong con cho đến

         vô cùng tận tức là kính thờ Đức Chúa Cha một cách sáng suốt.

     •  Thực hiện t́nh thương không biết chán nản, là kính thờ Đức

         Chúa Con một cách thiện lành.

     •  Có đức tin không biết mệt mỏi, là kính thờ đức Chúa, Thánh,

         Thần một cách chân chính vậy.

 

Giờ đây, đă hiểu rồi, thời CHA khuyên các con nào đi nhà thờ đă lâu và tự thấy đủ sức tự tu tự tiến, các con ấy nên ở nhà để tu hành, đặng nhường chỗ trong nhà thờ lại cho những đứa em con tŕnh độ thấp hơn con, ở lớp thua kém con tập sự vào thế chỗ con để tu học theo đúng luật TIẾN HÓA: tŕnh độ cao, phải nhảy sang lớp cao, để nhường chỗ lại cho tŕnh độ thấp, bước vào lớp thấp, mà tu tiến.

 

Nhân tiện, lư giải về giáo lư của Chúa, CHA khuyên các con không nên khinh thường các điều giảng có vẻ thiếu khoa học về vũ trụ nhân sinh trong kinh Phúc âm, bởi v́ lúc nó cô lập trong sa mạc nhịn đói 40 ngày để thanh lọc bản thể hầu tiếp nhận nguồn ân điển của CHA, ra mở đạo cứu đời, CHA tiếp điển khuyên nó giảng thật thấp, chỉ tuyên bố rằng: Thượng Đế giảng một lời, tức thời Càn Khôn Vũ Trụ h́nh thành, cho các con thời đó có ư niệm mà thôi, chứ giảng như ngày nay, thời các con hồi đó không hiểu nổi.

 

Điều này, bên Phật giáo cũng vậy, lúc Thích Ca mở Đạo cứu đời, CHA cũng tiếp điển khuyên nó giảng sơ về đất, nước, lửa, gió... cho các con thời đó hiểu được đại cương về cơ cấu h́nh thành Càn Khôn để rồi đến cơ phán xét sau cùng, tức Đại Hội Long Hoa kỳ ba này, Thượng Đế đích thân xuống thế, thuyết giảng rơ ràng, mạch lạc trong TỨ ĐẠI PHÁP KINH phù hợp với tŕnh độ tiến hóa của các con ngày nay vậy.

 

Thế nên, các con thấy rằng: các vị Giáo Chủ và CHA biết sử dụng lư trí trong minh triết vô lượng để thuyết giảng đạo lư cao thấp khác nhau, vào các thời kỳ khác nhau, ở các địa phương khác nhau, cho phù hợp với tŕnh độ chúng sanh (quần chúng), dễ dàng trong việc tu học tu hành.  Điều nầy giúp các con tiến hóa cao, có ư muốn cứu khổ quần sanh, hoằng dương chánh pháp, khi thuyết giảng đạo lư tu hành cho chúng sanh,  th́ phải tùy lúc mà thuyết, tùy nơi mà giảng, tùy người mà đáp, tùy việc mà làm... Biết sử dụng cái thấp cho tŕnh độ thấp hiểu, chớ nên thị tài, khoe trí ḿnh ra để ḷe đời.

 

Rốt cùng, cái học hành của Khổng, cái lư hành của Lăo, tu hành của Phật, thực hành của Chúa, cũng như hoạt động của các tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn giáo, Cao Đài giáo, Ḥa Hảo... cũng như của Hội Thông Thiên Học, các môn phái Yoga v.v... đều là thi hành theo Thiên ư của Thượng Đế, phụng sự cho cơ tiến hóa, đóng vào mục tiêu tiến hóa đời đời để được hằng hữu đời đời cho Càn Khôn Vũ Trụ mà thôi.

 

Đây là Giáo lư cũng như Pháp lư của các tôn giáo có được CHA lược giảng và thiên khải những điều cốt tủy căn bản cần thiết như sérum để tiêm thẳng vào sự mê chấp lâu nay của các con. Hay nói đúng hơn, đó là nước CAM LỒ dược thủy dùng để hóa giải đại mê, đại chấp, phân biệt chia rẽ, đố kỵ, tỵ hiềm, giữa các chi đạo tại trần gian.

 

Giờ đây, CHA sẽ khai tâm mở trí cho các con sáng suốt hơn về cách thức quy hiệp: tức quy tam hiệp ngũ, khai thông những bế tắc mà lâu nay trần gian mê muội, không t́m đâu ra lối thoát cho sự phân ly năm mối đạo này.

 

Quy tam hiệp ngũ có hai nghĩa:

 

     •  Nghĩa thứ nhất của QUY TAM HIỆP NGŨquy tam giáo hiệp ngũ chi, tức đưa ba tôn giáo cổ Nho-Lăo-Phật về một gốc thành "Càn Khôn Nhứt Thống Giáo". Gồm có năm chi đạo: Nhân đạo, Thần đạo, Thánh Đạo, Tiên đạo, Phật đạo về một mối tức "Thiên Địa Quy Nguyên Đạo" bằng một giáo lư sáng suốt do CHA thuyết giảng gọi là "THƯỢNG ĐẾ HIỆP NHỨT LƯ"; đó là QUY TAM HIỆP NGŨ của Đại Thiên Địa.

 

     •  Nghĩa thứ hai của QUY TAM HIỆP NGŨquy Tam Bữu hiệp ngũ khí, để quy tam thức hiệp ngũ quan, tức là nhiếp Tâm, định Trí, ǵn Ư, bế ngũ quan quay trở về bên trong bản thể, đặng dùng Pháp Luân thường chuyển đưa ngươn tinh thức, thủy thận về hỏa tâm để đốt ra khí điển. Khí điển này phối hợp với ngươn thần dần dần tạo thành THÁNH THAI XÁ LỢI.  Thánh thai Xá lợi sẽ được nuôi lớn dần dần bằng cách gôm khí ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Thổ, Hỏa về trung ương để tinh luyện thành KIM CANG THẦN hầu giúp con về nơi siêu thoát. Đây là Quy Tam Hiệp Ngũ trong tiểu thiên địa.

 

Đại Thiên Địa từ tiểu thiên địa (Tiểu hồn) mà thành. Tiểu thiên địa do Đại Thiên Địa mà ra. Muốn Quy Tam Hiệp Ngũ ngoài Đại Thiên Địa, trước tiên phải Quy Tam Hiệp Ngũ trong tiểu thiên địa. Có quy mới về v́ quy là về, không quy ắt không về được nghe con!

 

Dùng phương sách ǵ để Quy Tam Hiệp Ngũ ngoài Đại Thiên Địa. Đây, hăy nghe CHA giảng:

 

Làm thế nào để đưa ba tôn giáo cổ về một gốc, gồm năm chi đạo về một mối?  Có lẽ chúng con nghĩ rằng, bỏ hết các tôn giáo cũ, để theo một tôn giáo của CHA là "CÀN KHÔN NHỨT THỐNG GIÁO" rồi nhập cuộc năm chi đạo thành một đạo là "THIÊN ĐỊA QUY NGUYÊN ĐẠO". Hỏng! hỏng! hỏng! Làm như thế th́ trăm lần cũng hỏng, mà ngàn lần cũng hư.

 

Các con ơi, các con quá ngu dại, thành ra các con đâu có biết rằng: lâu nay các con đều nằm trong đạo của CHA, đang tu học tiến hóa theo từng cấp đạo của CHA, do các vị giáo chủ tức những phân thân điển quang của CHA xuống thế vào những thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau, mở dạy các cấp đạo với nhau, cho phù hợp với tŕnh độ tiến hóa của tiểu hồn tu học tu hành, đặng trở về hiệp nhứt với Ngài.

 

Thế nên, bây giờ CHA cho các con rơ, cách quy hiệp của CHA là không quy hiệp ǵ cả con! Tất cả vẫn giữ lại y như cũ.

 

Có lẽ các con sững sốt khi nghe Thượng Đế tuyên bố, một câu quá sức vô lư, QUY HIỆP MÀ KHÔNG QUY HIỆP thời làm sao đưa các tôn giáo, chi phái về một gốc, một mối được? Điều này CHA sẽ dẫn giải ra đây bằng cách h́nh tượng trong thế giới hữu vi, thời các con sẽ rơ. Các con hăy h́nh dung cách thức tổ chức giáo dục ở trần gian các con, theo thứ tự từ cấp 1, 2, 3 cho đến cấp đại học, cao học, rồi đến tiến sĩ, thạc sĩ.

 

Đầu tiên, các con tập sự học hành ở lớp mẫu giáo, sau sang cấp một, rồi tiến dần đến cấp 2, 3, rồi đại học, cao học, tiến sĩ... Khi đến học vị tiến sĩ rồi, con cho rằng các cấp học ở dưới không c̣n cần nữa, bỏ hết đi, thời sự kiện ǵ sẽ xảy ra?

 

Dĩ nhiên, các con hiểu rằng làm như thế tức nền giáo dục của nhân loại sẽ sụp đổ tức khắc, trường ốc không c̣n mở nữa, thầy giáo không c̣n dạy nữa, con em các con ra đời sau sẽ đi vào ngu dốt, nền văn minh thụt lùi, rồi đi đến sụp đổ tức khắc: v́ trí thức không c̣n tiếp truyền từ đời nọ sang đời kia.

 

Do đó, các con thấy rằng, sự cần thiết của lớp một, chẳng khác nào như lớp tiến sĩ vậy.

 

Thế nên CHA tuyên bố rằng "quy hiệp mà không quy hiệp" có ngĩa là các tôn giáo, đạo phái đều không được bỏ mà vẫn giữ lại y như cũ. Nếu bỏ đi một cấp đạo nào, như Nhân đạo chẳng hạn, thời ḍng tiến hóa bị cắt đứt, Càn Khôn sẽ sụp đổ tan tành!

 

Các con cho rằng, Nhân đạo thấp quá không phù hợp với tŕnh độ chúng con nữa, bỏ đi, dạy các con cấp đạo cao hơn, thời các tiểu hồn em con xuống sau lấy chi để học, đặng nếm, chứng nghiệm những ǵ mà các con đă nghe, đă thấy, đă biết, để làm căn bản lấy đà tiến sang các cấp đạo cao hơn.

 

Tư tưởng như vậy, sau khi đă tốt nghiệp các cấp đạo mà con đang theo học như Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo xong rồi bỏ đi, thời các cấp đạo đàn em con, lấy trường đâu mà học, bài đâu mà giảng cho nó nữa?

 

Các con qua cầu rồi lại rút thang, để ngăn chặn sự tiến hóa các cấp đạo đàn em các con hay sao?

 

Cho nên CHA tuyên bố “quy hiệp mà không quy hiệp” chính là lời phán xét sáng suốt nhất, đúng đắn nhất, để cho các tôn giáo vẫn hoạt động lại như cũ. Đó là các cấp đạo được mở dạy tại trần gian từ xưa tới nay, để cho các tiểu hồn của Ngài, tùy tŕnh độ mà chọn một cấp đạo tu hành, rồi từ đó tiến hóa sang các cấp đạo cao hơn. Để cuối cùng đạt tới toàn giác, toàn năng, toàn chân, toàn mỹ, đặng trở về hiệp nhứt với Thượng Đế, tức chơn lư tối thượng “Nguyên Minh Chánh Giác” vậy.

 

Giờ đây, các con đă hiểu được cách thức quy hiệp rồi, thời các con phải siêng năng tinh tấn, công phu luyện đạo, phát triển BI-TRÍ-DŨNG tức bác ái, minh triết, ư chí mà cũng gọi là công phu, công quả, công tŕnh, vừa tự tu, tự tiến để tiến hóa. Đồng thời d́u dắt các bạn đạo cùng nhau tu học tu hành cho kịp kỳ kẻo trễ.

 

Để đáp ứng theo đủ mọi tŕnh độ, mọi căn cơ, mọi hoàn cảnh, CHA tạm liệt kê mà dẫn giải ra đây một số PHÁP LƯ giúp các con có đủ bài để chọn, đủ kiểu xe, đủ kiểu bè... để nương theo đó lựa chọn mà tu tiến.

 

 

I. NHỨT TÂM QUÁN PHÁP     

 

Đây là pháp môn trực chỉ THIỀN, được Thích Ca bí truyền cho Ma Ha Ca Diếp (CHA đă giảng đoạn trước), rồi Ca Diếp truyền cho A Nan, rồi Tổ Tổ tương truyền cho đến Đạt Ma. Sau Đạt Ma quy Trung thổ (Trung quốc ngày nay) phú truyền cho Huệ Khả, rồi lần lượt truyền nhau từ Tăng Xán, qua Đạo Tín, rồi đến Hoàng Nhẫn, sau cùng là Lục Tổ Huệ Năng, thời phát triển rực rỡ.

 

Pháp môn này, chẳng cần giữ giới, tinh tấn thiền định trí huệ, mà chỉ cần ĐỐN NGỘ CHƠN TÂM KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT, muốn đắc đạo vô thượng, theo pháp môn này các con phải luôn luôn cột chặt Tâm-Trí-Ư đừng để buông lung theo ngoại cảnh, quán xét các pháp từ đâu đến rồi đi về đâu?

 

Nói chung, là quán tưởng các công án (tức là các câu hỏi do Phật hoặc Tổ đặt ra) như: Sinh từ đâu đến? Chết đi về đâu? Ta là ai? Sau 49 năm thuyết pháp độ sanh, thuyết giảng cả thiên kinh vạn quyển, mà khi nhập Niết bàn, Thích Ca lại tuyên bố: Ta vốn không nói một lời? Thế th́ kinh, sách lưu truyền ngày nay do ai thuyết giảng v.v...

 

Khi tập trung trí tuệ, đem hết b́nh sinh, ngày đêm không nghĩ, quán cho vỡ lẽ một công án, tức thời mọi công án đều bừng sáng lên, đưa con ngộ nhập vào Phật-Tri-Kiến, đắc quả giải thoát.

 

Pháp này nguy hiểm, khó dùng, chỉ có con nào căn cơ cao, tu nhiều kiếp, đă từng mở hạnh Bồ Tát cứu khổ cho nhiều chúng sanh tu hành, thời mới đủ sức dùng pháp này. Các con độn căn, trí thấp, đức kém, dùng pháp này dễ bị sai lạc và đi đến cuồng thiền, làm hư hoại bản thể.

 

II. NHỊ TINH TẤN

 

Tức tinh tấn, siêng năng, phát triển cả hai mặt: nghiên cứu tu học và thực hiện t́nh thương.

 

Nghiên cứu, siêng năng, tinh tấn tu học để mở Huệ. Khi Trí-Huệ đă mở cao, thông suốt được đạo lư, thấy được sự đau khổ của chúng sinh trôi lặn trong ṿng sinh, lăo, bệnh, tử. Dù chưa đắc đạo, nhưng mở hạnh Bồ Tát, dong ruỗi ta bà, thuyết giảng đạo lư, hoằng dương chánh pháp, cứu độ chúng sanh thức tỉnh vào đạo tu hành để bồi bổ phần âm đức, tức tinh tấn thực hiện t́nh thương không biết chán vậy.

 

Phát triển t́nh thương vô cùng tận, thương tất cả chúng sanh trong ba cơi, nguyện nát ḿnh v́ Đạo, cho chúng sanh được an vui thoát khổ.

 

Pháp môn nầy là "PHƯỚC HUỆ SONG TU", rất cần thiết cho các con tiến hóa cao vào thời Hạ Ngươn mạt pháp này, để rèn luyện ư chí cứu khổ cho quần sanh, đặng bồi dưỡng thêm phần âm đức cho con.

 

III.  TAM HỌC

 

Đây là pháp môn GIỚI-ĐỊNH-HUỆ, bên cấp Phật giúp các con tự tu tự tiến. Các con nên tham cứu, tham học với anh em bạn đạo bên Phật giáo sẽ rơ hơn.

 

IV. TỨ THANH LIÊM

 

Bốn điều trong sạch:

     *  Niệm thanh liêm:   Ghi nhớ trong sạch

     *  Tưởng thanh liêm:  Nghĩ ngợi trong sạch

     *  Dục thanh liêm:   Ham muốn các điều trong sạch

     *  Vọng thanh liêm:   Ước mơ các điều trong sạch

 

Điều trong sạch là điều giúp các con tiến hóa, nhẹ nhàng, sáng suốt; nó trái với điều dơ bẩn, kéo con vào tội lỗi xấu xa.

 

TỨ NIỆM XỨ, TỨ CHÁNH CẦN, TỨ NHƯ Ư TÚC, TỨ DIỆU ĐẾ có bên Phật đạo, nên CHA không giảng ra đây (nhằm mục đích giúp các con làm quen với các bạn đạo bên cấp Phật để trao đổi tu học).

 

Các pháp nầy chỉ trợ duyên, hỗ trợ cho sự tu hành của các con mà thôi.

 

V. NGŨ CHÁNH TRỰC, NGŨ CĂN, NGŨ LỰC, NGŨ GIỚI

 

Ngũ chánh trực là năm điều ngay thẳng:

     *  Nghe cho đúng đắn

     *  Thấy cho đúng đắn

     *  Biết cho đúng đắn

     *  Nói và làm cho đúng đắn

 

Ngũ căn, ngũ lực, ngũ giới có bên đạo Phật, các pháp môn này cũng trợ duyên mà thôi.

 

VI.  LỤC ĐẠO HẤP DẪN - LỤC ĐẠO GIẢI THOÁT - LỤC ĐỘ

 

     *  LỤC ĐẠO HẤP DẪN: Vô minh, ngoại vật chi phối, ư thức tự quyết, thọ lănh thân mạng, tiếp nhận danh sắc, định hướng hoạt động.

 

Bởi vô minh (không sáng suốt) nên các con mới bị ngoại cảnh chi phối hấp dẫn, bị ngoại vật chi phối hấp dẫn, nên các con mới khởi sinh ư thức tự quyết hấp dẫn, ư thức tự quyết hấp dẫn lôi kéo các con đầu thai linh hồn vào các thân mạng hấp dẫn. Khi thọ lănh thân mạng rồi, tức các con sẽ tiếp nhận DANH (các pháp tư tưởng) và SẮC (các pháp vật thể) hấp dẫn. Danh sắc hấp dẫn các con khiến các con chọn mục tiêu hoạt động cho lư tưởng, tức nhu cầu mà các con tự đặt ra, tạo thành định hướng hoạt động.

 

     *  LỤC ĐẠO GIẢI THOÁT: Phật tính thể hiện, ngoại vật tự diệt, ư thức tự hủy, vô thọ lănh xứ, danh sắc tự tán, vô định hướng xứ.

 

Qua quá tŕnh luân hồi trong bể sanh tử, giúp các con nếm, chứng nghiệm bao cảnh khổ vui của kiếp con người ngắn ngủi chóng tàn, như bèo mây giả hợp, bọt nước bèo tan trong gịng sông giả tạm, khiến con thức tỉnh có ư chí vươn lên, nghiên cứu tu học đạt đến chỗ cao siêu giải thoát, tức chứng ngộ được Phật tánh siêu việt, không sinh không diệt, chẳng đến chẳng đi, thung dung tự tại, vô ngại vô sở...

 

Khi Phật tánh trong bản thể bừng sáng lên, tức chơn lư thị hiện, thời ngọai vật không c̣n chi phối con được nữa, giống như bị hủy diệt đi vậy. Ngoại vật tự diệt trong tâm thức con, thời tri thức tự hủy theo, không c̣n quyết định đầu thai để thọ lănh thân mạng nữa. Khi không c̣n thân mạng, tức con an trụ vào cơi VÔ THỌ LĂNH XỨ, tức cảnh giới Niết Bàn. Niết Bàn là ra khỏi mê lầm, mê chấp, chẳng tiếp nhận mà cũng chẳng phủ nhận, không lấy mà cũng không bỏ, nên danh sắc chẳng làm ô nhiễm được con. Giống như bị tiêu tan đi vậy. Đến đây, con vào cảnh giới chẳng động, chẳng loạn, vô thiên, vô định, vô trí diệc vô đắc, vô vô minh diệc, vô vô minh tận... tức là cơi nước của mười phương chư Phật thường ngự hay c̣n gọi là VÔ ĐỊNH HƯỚNG XỨ vậy (VÔ ĐỊNH HƯỚNG XỨ khác với KHÔNG ĐỊNH HƯỚNG XỨ, tức chẳng phải không có định hướng ǵ cả, đó là NGOAN KHÔNG VÔ KƯ, nguy hiểm vô cùng).

 

Tuy chia ra nhiều lục đạo giải thoát, chứ thật sự khi con ngộ được tự tánh rồi, thời năm cái sau xuất hiện cùng một lượt. Đây là pháp môn giúp con thấy được nhân duyên, luân hồi sinh tử (lục đạo hấp dẫn) và đổi lại là nhân duyên giải thoát (lục đạo giải thoát). Nhờ vào đó mà con bỏ nhân duyên sinh tử, đặng con chọn nhân duyên giải thoát, nghiên cứu tu học cho đến kết quả cuối cùng là chứng ngộ được CHƠN LƯ, tức thấy được tự tánh hay PHẬT TÁNH thể hiện vậy.

 

     *  LỤC ĐỘ:  Tức sáu cách để tự độ và tha độ.

 

     a)  LỤC ĐỘ TỰ ĐỘ:  C̣n gọi là pháp môn niệm LỤC TỰ DI ĐÀ, hay tu tịnh độ, tức tịnh lục căn để độ lục trần bằng cách niệm liên tục sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật", thu nhiếp lục căn để khỏi nhiễm lục trần, tịnh sáu căn để ngăn sáu giặc, lau chùi Nhăn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ư cho trong sạch để khỏi bị ô nhiễm dơ bẩn bởi Thanh, Sắc, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Đấy là về mặt hữu vi. Về mặt vô vi, niệm LỤC TỰ DI ĐÀ để khai thông sáu luân xa trong bản thể. Sáu luân xa này khai thông th́ sáu căn thanh tịnh sáng suốt, giúp con rời uế độ, tiến dần sang tịnh độ, tức cơi thanh tịnh, an lạc, sáng suốt. Cho đến một lúc nào đó, bỗng nhiên tâm linh con bừng sáng thể nhập được Phật-Tri-Kiến tức là con thật sự văng sanh vào cơi Tây phương Tịnh độ c̣n gọi là Quốc độ Cực lạc của A Di Đà hay nói đúng hơn TRÍ con đă thâu nhập được vào thể TRÍ sáng suốt của Càn Khôn đó vậy.

 

Nhân cơ hội giảng về tịnh độ, CHA nhắc lại cho các con tu pháp môn này nhớ rằng: Tu mà c̣n vọng cầu, vọng tưởng đến chuyện trần gian, thời đừng mong Phật và các vị Bồ Tát đến rước con về cơi Tây Phương nghe con. V́ lỡ Ma Vương Ba Tuần nó thị hiện thần thông, biến hóa thành A Di Đà, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí đến rước con về cùng Ma, thời các con làm sao nhận biết được phải không con?

 

Tuy nhiên, CHA nói là vậy, chứ các con đă thật tâm tu tịnh độ rồi, dù cho chúng nó kéo hết ḍng họ nhà Ma chúng đến, cũng chẳng làm hại con được, v́ lúc đó luồng điển quang phát ra trong sáu luân xa trong bản thể của con thật sáng mạnh, đẩy văng chúng ra xa không cho chúng đến gần con được.

 

C̣n con nào giả tu tịnh độ, mượn Đạo tạo Đời, sáu luân xa không phát ra thành điển được, mà c̣n bị trược điển bao phủ đè nặng, thời lũ Ma nó mới đến gần con được để kéo con vào tội lỗi xấu xa y như nó đặng trả cho tṛn cái nghiệp mượn Đạo tạo Đời, giả tu giả chứng vậy.

 

     b)  LỤC ĐỘ THA ĐỘ: là BỐ THÍ, TR̀ GIỚI, NHẪN NHỤC, TINH TẤN, THIỀN ĐỊNH, TRÍ HUỆ. Pháp môn này có bên cấp Phật, con nào tiến hóa cao, muốn mở hạnh Bồ Tát thời liên hệ với các con bên cấp Phật để mượn kinh sách tu học, phát triển BI-TRÍ-DŨNG đặng cứu khổ ban vui cho quần sanh.

 

VII.  THẤT GIÁC CHI

 

Đây là pháp môn trợ duyên thôi, có bên cấp Phật, con nào thích thời liên hệ với các con bên cấp Phật đạo tu học.

 

VIII.  BÁT CHÁNH ĐẠO

 

Là tám con đường chánh dẫn dắt các con ra khỏi tà đạo:

     1)  Chánh kiến:  Thấy cho đúng sự thật

     2)  Chánh tư duy:  Suy nghĩ cho đúng đắn

     3)  Chánh nghiệp:  Làm cho chân chánh

     4)  Chánh mạng:  Sống cho chân chánh

     5)  Chánh tinh tấn:  Tiến một cách chân chánh

     6)  Chánh niệm:  Nhớ những điều chân chánh

     7)  Chánh định:  Thiền định theo chánh pháp

     8)  Chánh ngữ:  Nói lời ngay thật chơn chánh

 

Đấy là mặt hữu vi bên ngoài CHA đă ban răi hồng ân xuống điển cho các con tiến hóa cao, phổ truyền cho quần chúng, pháp môn vô vi huyền nhiệm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn này, đó là pháp môn "MẬT NIỆM BÁT CHÁNH" để khai thông và phát triển bát thức cho được chơn chánh.

 

Trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy, các con ngồi xềp bằng, niệm Lục Tự Di Đà, phối hợp với sự tập trung TÂM-TRÍ-Ư vào tám luân xa trong bản thể như sau:

 

     1)  Luân xa nơi chót mũi, để khai mở tỷ thức chơn chánh.

     2)  Luân xa nơi giữa hai hàng lông mày, để khai mở nhăn thức chơn

          chánh.

     3)  Luân xa nơi đỉnh trán, để khai mở ư thức chơn chánh.

     4)  Luân xa nơi xoáy óc, tức đỉnh đầu, để khai mở TRÍ THỨC chơn

          chánh.

     5)  Luân xa nơi ngọc chẩm (giữa óc và sọ) để khai mở NHĨ THỨC

          chơn chánh.

     6)  Luân xa nơi ót, để khai mở thiệt thức chơn chánh.

     7)  Luân xa nơi tim, để khai mở TÂM THỨC chơn chánh.

     8)  Luân xa nơi rún, để khai mở THÂN THỨC chơn chánh.

 

Tám luân xa trong bản thể là những trung tâm lực điều khiển sự hoạt động của ngũ quan và tâm trí ư, trong tiểu hồn c̣n gọi là Bát thức liên hệ mật thiết với Bát Chánh Đạo là phần hữu vi bên ngoài.

 

     -  TÂM thức chơn chánh tức chánh định (luân xa ở tim).

     -  TRÍ thức chơn chánh tức chánh tư duy

     -  Ư thức chơn chánh tức chánh niệm

     -  NHĂN thức chơn chánh tức chánh kiến

     -  NHĨ thức chơn chánh tức chánh nghiệp

     -  TỶ thức chơn chánh tức chánh tinh tấn

     -  THIỆT thức chơn chánh tức chánh ngữ

     -  THÂN thức chơn chánh tức chánh mạng

 

Tâm thức, Ư thức, Trí thức c̣n gọi là Tâm Trí, Ư Chí, Lư Trí, c̣n xưa kia Thích Ca nó đặt tên là A Lại gia thức, Mạt na thức (hay Từ lượng thức), Truyền thống thức.

 

Đó là ba phần Hạ trí, Trung trí, Thượng trí trong tiểu hồn các con tương ứng với Hạ thiên, Trung thiên, Thượng thiên hay c̣n gọi là Hạ giới, Trung giới, Thượng giới của Đại Càn Khôn bên ngoài các con mà xưa kia Thích Ca nó gọi là Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới.

 

     *  Dục giới: hay cơi Hạ thiên, c̣n gọi là Hạ giới tức trần gian các con đang ở đấy. Đây là cơi hoạt động của chúng sanh, c̣n thân xác hữu vi và tánh tham.

 

     *  Sắc giới: hay cơi Trung thiên, c̣n gọi là Trung giới tức cơi mà các linh hồn tiến hóa thấp, sau khi bỏ xác về cơi này. Đây là cơi hoạt động của chúng sanh không c̣n xác thân nhưng c̣n tánh tham.

 

     *  Vô sắc giới: hay cơi Thượng thiên, c̣n gọi là Thượng giới tức Bồng Lai Tiên Cảnh. Đây là cơi hoạt động của chúng sanh tiến hóa cao, không c̣n xác thân và tánh tham, nhưng c̣n ư thức giới.

 

Đây là ba cơi nhẹ, c̣n ba cơi nặng là Ngạ quỷ, Súc sanh, Địa ngục. Các cơi này là những TRẠM TIẾN HÓA rất cần thiết và b́nh đẳng như nhau để cho vô số tiểu hồn các con lặn lội, nếm, chứng nghiệm, học hỏi đủ mọi trạng thái, mọi phía cạnh: khổ, vui, chánh, tà, thiện, ác, đúng, sai, đẹp, xấu, trược, thanh... đặng sau khi giác ngộ hoàn toàn trở về hiệp nhứt với CHA làm một đấng toàn năng, toàn giác, rồi sử dụng cái toàn năng, toàn giác ấy, phụng sự đời đời cho cơ tiến hóa của Càn Khôn Vũ Trụ để được hằng hữu đời đời, vô cùng, vô tận, vô thỉ, vô chung vậy!

 

CHA nhắc lại, pháp môn "MẬT NIỆM BÁT CHÁNH" rất cần thiết và cấp bách trong giai đoạn mạt pháp này.

 

Đây là pháp môn thâu nhiếp hết các pháp, bao trùm luôn cả pháp môn niệm Lục Tự Di Đà, v́ Lục Tự Di Đà chỉ tịnh lục căn để độ lục trần. C̣n pháp môn "MẬT NIỆM BÁT CHÁNH" vừa khai thông ngũ quan, vừa phát triển tam thức. Pháp môn này chẳng những thanh lọc bản thể cho thanh tịnh, mà c̣n khai tâm, mở trí, luyện ư cho tiểu hồn con ngày càng hiền từ hơn, sáng suốt hơn, tin tưởng hơn vào chánh pháp của CHA và các vị Giáo Chủ.

 

Tuy là pháp môn mầu nhiệm, nhưng song song với việc MẬT NIỆM BÁT CHÁNH, các con phải siêng năng tinh tấn, công phu thiền định và ngăn ngừa đắm nhiễm ngũ quan vào ngũ dục. Đồng thời ngăn ngừa sự nổi dậy của tam độc (THAM, SÂN, SI) làm rối loạn lu mờ tam thức của con, bằng cách lúc nào ngũ dục nổi lên, tam độc khởi dậy, con liền tập trung MẬT NIỆM BÁT CHÁNH, tức đem hết TÂM-TRÍ-Ư niệm Lục Tự Di Đà vào tám luân xa, từ chót mũi đến rún, mỗi luân xa niệm một câu "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT". Nếu giáp một ṿng mà chưa đè nén nổi, thời liền niệm tiếp ṿng thứ hai nhưng đổi là: "NA MÔ A MI TA BA" cho mau hóa giải hơn, v́ âm ba phạn ngữ gần bằng độ chấn động điển của âm ba Càn Khôn Vũ Trụ. Nếu chưa hết, thời cứ tiếp tục niệm cho đến khi nào hết mới thôi, nghe con!

 

IX.  CỬU TƯỞNG QUÁN

 

Tức cửu tưởng thiền định, từ sơ thiền đến cửu thiền (tức lớp thiền thứ chín, gọi là diệt tâm định).

 

     *  SƠ THIỀN: Quán xúc chẳng có tự thể, chỉ là nhân duyên giả hợp.

     *  NHỊ THIỀN: Quán vị chẳng có tự thể, chỉ là nhân duyên giả hợp.

     *  TAM THIỀN: Quán hương chẳng có tự thể, chỉ là nhân duyên giả

         hợp.

     *  TỨ THIỀN: Quán thanh chẳng có tự thể, chỉ là nhân duyên giả

         hợp.

     *  NGŨ THIỀN: Quán sắc chẳng có tự thể, chỉ là nhân duyên giả

         hợp.

     *  LỤC THIỀN: Quán pháp (niệm) chẳng có tự thể, chỉ là nhân

         duyên giả hợp.

     *  THẤT THIỀN: Quán tưởng (tư duy) chẳng có tự thể, chỉ là nhân

         duyên giả hợp.

     *  BÁT THIỀN: Quán định chẳng có tự thể, chỉ là nhân duyên giả

         hợp.

     *  CỬU THIỀN: Diệt thọ quán (tức diệt tâm định), v́ đă thể nhập

         vào cái định vô Thiền, thấy khuôn mặt thật của Thiền. Lúc

         bấy giờ toàn thân chấn động. V́ con đă chứng được cái mà

         các bậc đắc đạo gọi là VÔ TỰ CHƠN KINH, VÔ NGÔN

         CHƠN THUYẾT, VÔ DUYÊN CHƠN TÂM, tức quyển kinh

         không chữ, bài giảng không lời, diệu tâm vô tướng (Thật

         Tâm chơn chánh không c̣n duyên theo ngoại cảnh). Đây

         chính là cảnh giới Niết Bàn diệu tâm, Thiên đàng giải thoát,

         mà phàm phu không thể nghĩ bàn đến được.

 

Giờ đây, con mới hiểu nổi chín cảnh giới thiền được diễn tả trong kinh bên cấp Phật:

 

     -  Sơ thiền: Nội hữu sắc tướng, quán ngoại sắc

     -  Nhị thiền: Nội vô sắc tướng, quán ngoại sắc

     -  Tam thiền: Nội ngoại vô tướng, quán tự sắc

     -  Tứ thiền: Tịnh bội xă thân tác chứng (đắc vô sắc định)

     -  Ngũ thiền: Không vô biến xứ (hư không định)

     -  Lục thiền: Thức vô biến xứ (thức xứ định)

     -  Thất thiền: Vô sở hữu xứ (vô sở hữu xứ định)

     -  Bát thiền: Phi hữu tưởng, phi vô tưởng xứ (c̣n gọi là phi phi tưởng,

         phi tưởng phi phi tưởng xứ định)

     -  Cửu thiền: Diệt thọ tưởng (bất định quán)

 

Pháp môn này muốn dễ hiểu, các con dùng nhân duyên pháp CHA đă giảng rọi vào suy luận sẽ rơ ngay.

 

     *  XÚC: chẳng có tự thể, v́ do thân (công năng tạo tác) va chạm vật

         (công năng hỗ trợ) tạo thành XÚC

     *  VỊ: chẳng có tự thể, v́ do lưỡi (công năng tạo tác) nếm vật (công

         năng hỗ trợ) sinh ra VỊ

     *  HƯƠNG: chẳng có tự thể, v́ do mũi (nhân) ngửi vào vật (duyên)

         sinh ra HƯƠNG

     *  THANH: chẳng có tự thể, v́ do tai (nhân) nghe âm thanh (duyên)

         sinh ra THANH

     *  SẮC: chẳng có tự thể, v́ do mắt (nhân) nhận biết vật (duyên) tạo ra

         SẮC

     *  PHÁP: (niệm) chẳng có tự thể, v́ do ư (nhân) nhận biết được vật

         (duyên) tạo ra PHÁP

     *  TƯỞNG: (tư duy) chẳng có tự thể, v́ do trí (nhân) hiểu được vật

         (duyên) tạo ra TƯỞNG

     *  ĐỊNH: chẳng có tự thể, v́ do tâm (nhân) chứa đựng ngoại vật

         (duyên) tạo thành ĐỊNH

 

X.  THẬP THIỆN

 

Thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, miệng không nói láo, nói thêm bớt, nói hai lời, nói chửi rủa thóa mạ. Tâm không tham, sân, si. Pháp môn này tương tự như mười điều răn bên Thiên Chúa giáo. Đây là pháp môn trợ duyên thôi. Muốn mau tiến hóa đến chỗ giải thoát, các con phải tu theo pháp môn THẬP ÁC do CHA giảng đây.

 

XI.  THẬP ÁC

 

     *  MỘT LÀ PHẢI SÁT SANH:  Bởi v́ tánh sát sanh là bản tánh không thể thiếu được của con cũng như của Thượng Đế. Thượng Đế cho con xuống thế để học tánh sát sanh, và phát triển tánh này cho đến vô cùng tận, để trở về hiệp nhứt với Thượng Đế. Mọi điều ngăn cấm không cho sát sanh của các vị Giáo Chủ đều là phản lại luật tiến hóa, làm cản trở con đường đi lên của Càn Khôn Vũ Trụ, làm cho guồng máy âm dương không vận chuyển được, Dịch lư Càn Khôn không vận hành được, các tiểu hồn không tiến lên đựợc... tức là bị dừng lại, thoái hóa và đưa đến thảm họa hủy diệt.

 

Muốn cho Càn Khôn vận hành, âm dương vận chuyển luật tiến hóa được thể hiện thời không ai có quyền cấm sát sanh, kể cả CHA luôn con!

 

CHA không cấm con sát sanh, nhưng khuyên con phải học sát sanh và phát triển tánh sát sanh cho đến vô cùng tận.

 

Ở loài kim thạch, có tánh sát sanh của loài kim thạch, loài thảo mộc có tánh sát sanh của loài thảo mộc, loài cầm thú điểu ngư có tánh sát sanh của loài cầm thú điểu ngư, loài người có tánh sát sanh của loài người. Thánh, Tiên, Phật có tánh sát sanh của Thánh, Tiên, Phật và cuối cùng là Thượng Đế có tánh sát sanh cấp Thượng Đế.

 

V́ thời giờ cấp bách, CHA không thể giảng hết tính sát sanh ở các loài được mà chỉ giảng từ tính vật sát lên đến tính Thượng Đế sát cho chúng con hiểu để tu hành đặng phát triển tính sát sanh cho đến vô cùng tận đừng để chúng tŕ trệ sự tiến hóa ngăn trở con đường trở về hiệp nhứt với chơn lư của các con.

 

Loài vật có tánh sát sanh của nó. Như loài thủy tộc trong ḷng đại dương thời ăn thịt lẫn nhau, bởi các sự kiện: cá lớn nuốt cá bé, cá mẹ ăn thịt cá con, cá anh cắn lộn cá em. Chúng giết hại lẫn nhau, không chút thương tiếc, dù là cha mẹ anh chị em ruột thịt.

 

Đến loài thú trên rừng, th́ tương đối đỡ hơn chút ít, mặc dù chúng không giết hại con chúng, nhưng v́ nhu cầu sống, chúng đi t́m các con thú khác chúng để ăn thịt, như cọp bắt dê nai, cáo bắt gà rừng, sói bắt thỏ, các loài chim dữ bắt các loài chim hiền. Chúng giết hại lẫn nhau chẳng chút ăn năn hối hận.

 

Rồi đến các loài gia súc, tức thú cầm do loài người nuôi trong nhà, thời chó bắt gà con, mèo giết chuột, gà vịt ăn côn trùng...

 

Như vậy, loài thú cầm, ngư điểu giết hại lẫn nhau theo nhu cầu bản năng. Chúng sát hại lẫn nhau không chút thương tiếc... nhiều loài giết luôn cả cha mẹ anh em chúng. Trừ một số loài tiến hóa cao sắp tiến sang loài người, mới biết thương con như gà, cu, cọp, chó, trâu, ḅ, và một số loài chim.

 

Khi tiến hóa sang đến loài người, thời ư thức phát triển cao hơn, có t́nh thương có đạo lư hơn loài thú. Do đó mà tính sát sanh ở loài người, tương đối trật tự chứ không dữ dội, hỗn loạn như loài thú. Loài người không chỉ biết thương yêu đồng loại, mà nới rộng đến loài vật, biết ăn năn, hối hận khi đạp chết một con gà con tí xíu, cảm thấy xót xa đau khổ khi giết lầm một người đồng loại... Tuy tánh sát sanh ở loài người phát triển cao hơn ở loài thú, nhưng khi quyền lợi bị va chạm, người thân bị giết chết, v́ loài người không nhẫn nhục nỗi, nảy sinh tư tưởng trả thù, sát hại lẫn nhau giữa người và người.

 

Tính sát sanh nới rộng từ quyền lợi cá nhân lan dần thành quyền lợi xă hội, gây ra những cuộc chém giết làm chết cả hàng vạn, hàng triệu con người, trong các cuộc chiến tranh v́ quyền lợi chính trị bị xung đột, quyền lợi kinh tế bị va chạm...

 

Nhưng rồi có một số lớn trong nhân loại, không muốn dừng chân lại trong loài người, sợ làm ác gặp ác, sợ quả báo luân hồi, nói đúng hơn là sợ bị đẩy lùi bởi ḍng tiến hóa liên miên bất tận của Càn Khôn Vũ Trụ. Nó có ư thức vươn lên t́m đạo tu học, không c̣n ưa thích cảnh giết chóc nhau, máu lệ ở trần gian nữa. Tức là nó đă có ư thức dấn thân vào con đường sát sinh ở cấp Tiên, Thánh, Phật vậy.

 

Giờ đây, nó không muốn sát sanh ở ngoài nữa, nó quay trở vào trong bản thể giết lần những chúng sanh trong bản thể, đă lôi kéo nó vào nghiệp sát bên ngoài. Chính Tham, Sân, Si, Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Dục... gồm chung là thất t́nh lục dục, tam độc, thất ác, là những con thú tàn ác nhất trong tâm linh đă lôi kéo nó quay ra tàn sát các chúng sanh bên ngoài.

 

Các con ơi! CHA cho các con tha hồ giết, giết hết, giết sạch các chúng sanh trong bản thể con đi. Lũ chúng nó là những con vật ghê tởm nhất, đáng sợ nhất, nếu con lơ là không tàn sát hết chúng nó, th́ không thể nuôi lớn được TÍNH PHÓNG SINH tức là tính sát sinh trong hàng Thánh, Tiên, Phật vậy.

 

Ở hàng Thánh, Tiên, Phật, tính sát sinh thăng hóa, phát triển thành TÍNH PHÓNG SINH. Một cái hoa hé nụ đầu xuân, một chiếc lá non mới nở vào buổi sáng, một con kiến tí xíu cho đến loài thú dữ, thú hiền... cũng không làm máy động đến tâm sát các Ngài. Các vị ấy không muốn hái một cái hoa, rứt một chiếc lá, giết một con kiến, bắt một con thú... bởi v́ các Ngài biết rằng đó là những tiểu hồn sinh sau Ngài, xuống thế chậm hơn Ngài, cũng có khả năng tu học tiến hóa như Ngài để trở về hiệp nhứt với chân lư tối thượng vậy.

 

Về đến ngôi CHA, các con sẽ hưởng được những cảm giác trạng thái sung sướng vô cùng tận, bằng các cuộc tàn sát ghê gớm! Tính sát sanh của CHA vĩ đại vô cùng, CHA vừa giết loài kim thạch, loài thảo mộc, loài cầm thú, loài người, loài Thánh Tiên Phật và giết luôn cả chính CHA nữa. Điều này làm các con ngạc nhiên nhưng sự thật vẫn là sự thật. Thượng Đế phải giết cả Thượng Đế, nếu không thời Thượng Đế chẳng hằng hữu đời đời (chổ nầy cao siêu, chỉ khi nào các con về đến ngôi CHA, các con mới hiểu nổi).

 

Các con ơi! Nếu Thượng Đế ngừng sát sinh trong một sao đồng hồ thời Càn Khôn Vũ Trụ sẽ tan ră trong tức khắc.

 

Con hăy h́nh dung, nếu CHA không giết loài kim thạch thời hiện tượng ǵ sẽ xảy ra? Nếu loài kim thạch không tự hủy hoại bằng cách cho chúng phá hủy lẫn nhau, các hạt tử trong chúng không tương tác lẫn nhau, để chúng sống hoài, chẳng hoạt động thời làm sao, các phản ứng nhiệt hạch tâm trong ruột các v́ sao h́nh thành, đặng phát ra ánh sáng chiếu xuống hành tinh? Mặt trời không phát ra ánh sánh, thời các phản ứng hóa học tổng hợp chất vô cơ thành hữu cơ, từ đó phát sinh thành các thể sống như: Axít Amin, Protéin, Glucid... để tạo thành các tế bào, mở đầu cho thế giới sinh vật phát triển dần, từ đơn bào đến đa bào, từ tư dưỡng sang dị dưỡng, từ khi cây không có gỗ đến cây có gỗ, từ động vật không xương sống đến động vật có xương sống, từ loài thú đến loài người...

 

Sự sống không có được, v́ Càn Khôn không h́nh thành được th́ đây là một sự hủy diệt vậy! Thế nên, muốn thoát khỏi thảm họa hủy diệt, Ngài phải sát sinh đời đời, sát sinh vô cùng tận, sát sinh trong minh triết vô lượng, để các con Ngài có bài học đặng học hỏi, chứng nghiệm, nếm đủ mọi chua, cay, mặn, đắng, ngọt, bùi, nếm vui rồi nếm khổ, nếm đủ mọi vị, mọi thứ, mọi cảm giác, mọi trạng thái, mọi sự kiện trong lúc nó đang sát sinh, để rốt cùng sau khi đạt đến giác ngộ hoàn toàn, hiệp nhứt với Thượng Đế, làm một Đấng Toàn Giác, Toàn Năng, nó biết sử dụng tánh sát sanh vô cùng tận trong minh triết vô lượng, phụng sự cho Càn Khôn tiến hóa đời đời, để được hằng hữu đời đời.

 

     *  HAI LÀ PHẢI ĂN CẮP: Cũng như sát sinh, ăn cắp là bản chất không thể thiếu được của con cũng như của Thượng Đế. Sau khi tách rời khỏi Đại Hồn CHA xuống thế, tiểu hồn con học và phát triển tánh ăn cắp cho đến vô cùng tận để trở về hiệp nhứt với Thượng Đế.

 

Mới đầu, các con ăn cắp theo kiểu trược, sau đó tiến sang ăn cắp theo kiểu thanh.

 

Ăn cắp theo kiểu trược là ăn cắp của cải, tiền bạc, vật chất ở trần gian, bằng các mánh khóe, lường gạt, buôn bán gian lận, đầu cơ tích trữ, móc ngoặc, đào ngạch, móc túi, trộm cắp... Nói chung, những kiểu ăn cắp này làm cho con nặng nề tối tăm, bởi trược điển bao phủ đè nặng, làm cho tŕ trệ con đường tiến hóa của con, cản trở con đường trở về hiệp nhứt với Đại hồn CHA vậy.

 

Giờ đây, muốn tiến hóa con phải bỏ kiểu ăn cắp đó đi, để tiến sang cách ăn cắp hay hơn, cao hơn, có ích nhiều hơn cho sự tiến hóa của con.

 

Ăn cắp của cải trần gian không khéo các con bị tù tội, chứ ăn cắp của cải của CHA, đă không tù mà c̣n giúp con khỏe mạnh lẫn thể xác và linh hồn. Đó là con biết siêng năng tinh tấn công phu luyện đạo. Thâu rút khí âm dương trời đất vào thanh lọc bản thể, bằng pháp môn thiền định, pháp luân thường chuyển.

 

Có lẽ các con ngạc nhiên lắm? Khi nghe CHA nói rằng, công phu luyện đạo là ăn cắp. Nhưng CHA biết nói làm sao hơn khi nói lên điều này. Quay ra ngoài bản thể, lấy trộm của chúng sanh đó là ăn cắp theo kiểu trược trần. Trở vô trong bản thể để lấy trộm: Tiên thiên khí của CHA để công phu luyện đạo bằng pháp luân thường chuyển, chính là ăn cắp theo kiểu thanh nhẹ. Đây là lối ăn cắp của Tiên Phật vậy.

 

Như vậy, tính ăn cắp chẳng có ǵ xấu, nếu biết học hỏi phát triển, th́ nó trở nên rất hữu ích cho con. Khi các con đă hiểu ra rồi, CHA khuyên các con nên phát triển tính ăn cắp hơn lên, đừng ăn cắp của cải thế gian mà phải biết ăn cắp những thứ cao quư hơn, sáng suốt hơn, vĩ đại hơn và cuối cùng con phải ăn cắp cho được CHƠN LƯ TỐI THƯỢNG của Thượng Đế, để được Ngài nhường ngôi Thượng Đế lại cho.

 

     *  BA LÀ PHẢI TÀ DÂM: Tương tự như sát sanh, ăn cắp, các con phải thăng hoa phát triển tính tà dâm. Các con không nên lấy vợ người làm vợ ḿnh, mèo mỡ, trai gái... đi dần đến chỗ cắt đứt "dục trần" để tiến sang cách "dục thanh" cao hơn, quư hơn, giúp con mạnh khỏe cả thể xác lẫn tinh thần. Giờ đây, con không tà dâm hăm hiếp bên ngoài nữa, mà phải quay vào trong con, hăy hăm hiếp vía con đi, v́ đấy chính là cô vợ thiêng liêng của con đó. Yêu thương nó, dâm dục với nó để đạt đến trạng thái âm dương ḥa điệu, bằng công phu thiền định, đừng để nó rời khỏi tay con theo bọn lục căn, lục trần, thất t́nh, lục dục, lôi kéo nó vào chỗ nặng nề u tối, làm tŕ trệ sự tu tiến của linh hồn con.

 

CHA tạm ngừng ở đây, chừa lại bảy điều ác kia (vọng ngữ, ư ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, tham, sân, si) để các con nghiên cứu học hỏi lấy, bởi v́ bổn phận của Tiểu hồn khi xuống thế là phải nghiên cứu tu học đời đời, để được tiến hóa đời đời hầu trở về hiệp nhứt với Thượng Đế, làm một Đấng hằng hữu đời đời, đặng hỗ trợ cho Càn Khôn tiến hóa đời đời (các con t́m đọc TÔI TẦM ĐẠO tập 7).

 

XII.  THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

 

Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lăo, lăo duyên tử.

 

Đây là pháp môn nói về nhân duyên Luân Hồi Sanh Tử giống như pháp môn Lục Đạo Hấp Dẫn, giúp con nhận rơ căn nguyên sinh tử, để t́m phương pháp tu hành đặng giải thoát. Pháp môn này bên cấp Phật có giảng kỹ, con nào muốn nghiên cứu tu học, th́ liên hệ với các con bên Phật đạo trao đổi tu tiến.

 

Đây là một số pháp môn, từ Nhất Tâm Quán Pháp cho đến Thập Nhị Nhân Duyên, trong vô lượng pháp môn của Càn Khôn Vũ Trụ, được Thượng Đế cho truyền giảng tại trần gian vào thời kỳ hạ ngươn mạt pháp, để các con Ngài có đủ kiểu xe, mọi kiểu bè... hầu con lấy một pháp môn để tu học tu hành, đặng sớm trở về hiệp nhứt với Ngài theo thang tiến hóa sau đây:

 

     *  Đấng Vô Vô Thượng Thượng Thượng Đế Nguyên Tôn, ngự

         ở cơi Vô Thỉ Vô Chung Niết Bàn thường trú.

     *  Đấng Vô Thượng Thượng Đế, c̣n gọi là Vũ Trụ Thượng Đế,

         ngự ở cơi Vô Thượng Niết Bàn.

     *  Đấng Tối Thượng Thượng Đế, c̣n gọi là Đại Thiên Hệ

         Thượng Đế, ngự ở cơi Tối Thượng Niết Bàn.

     *  Đấng Thượng Thượng Thượng Đế, c̣n gọi là Thiên Hệ

         Thượng Đế, ngự ở cơi Thượng Thượng Niết Bàn.

     *  Đấng Trung Thượng Thượng Đế, c̣n gọi là Thiên Hà

         Thượng Đế, ngự ở cơi Trung Thượng Niết Bàn.

     *  Đấng Tiểu Thượng Thượng Đế, c̣n gọi là Thái Dương

         Thượng Đế, hay Phổ Tịnh Thượng Đế, ngự ở cơi Tiểu

         Thượng Niết Bàn.

     *  Ngọc Hoàng Thượng Đế, c̣n gọi là Kim Thân Ngọc Đế, ngự ở

         cơi Tối Đại Niết Bàn.

 

Từ cơi này trở lên chứa toàn Tiên Thiên Khí.

 

     *  Kim Cang Ngọc Đế, ngự ở cơi Đại Niết Bàn chứa Thiên Khí.

     *  Phật, Bồ Tát, ngự ở cơi Niết Bàn, chứa Âm Dương Khí.

     *  Đại Tiên, Chơn Tiên, A La Hán trú ở cơi Bồ Đề, chứa Thái

         Thanh Khí.

     *  Các linh hồn tiến hóa cao, trú ở cơi Thượng Thiên, chứa

         Thượng Thanh Khí.

     *  Các linh hồn tiến hóa thấp, trú ở cơi Trung Thiên, chứa

         Thanh Khí.

     *  Các loài như: người, cầm thú, thảo mộc, kim thạch ... trú ở

         cơi Hạ Thiên, tức cơi Hồng Trần, chứa khí Hồng Trần.

     *  Các loài Sa Tăng, Ngạ Quỷ, và linh hồn nặng tội, trú ở cơi

         Địa Ngục, chứa khí Địa Ngục.

 

Các cơi này là những trạm tiến hóa trong Càn Khôn Vũ Trụ, giúp các Tiểu hồn lặn lội học hỏi, nếm, chứng nghiệm tất cả mọi cảm giác, mọi trạng thái, mọi sự kiện... để đạt đến giác ngộ hoàn toàn. Những trạm nầy đều cần thiết và b́nh đẳng như nhau.

 

Các vị Thượng Đế cấp cao, từ Phổ Tịnh Đại Đế lên đến Vô Vô Thượng Thượng Thượng Đế Nguyên Tôn đều phải làm việc đời, đặng phụng sự cho cơ tiến hóa đời đời để được hằng hữu đời. Các vị đó đều do CHA phân thân điển quang ra làm việc mà thôi (chỗ này cao siêu, chỉ khi nào các con về đến ngôi CHA th́ mới hiểu nổi).

 

Khi về đến ngôi CHA, Thượng Đế nhăn đă mở, Thượng Đế trí đă khai, con sẽ gặp được các vị Thượng Đế cấp cao.

 

     *  Đấng Vô Vô Thượng Thượng Thượng Đế Nguyên Tôn, thâu

         biến khắp cùng Càn Khôn Vũ Trụ, biến hóa vô cùng, thần thông vô

         lượng, chuyển pháp vô biên, để cứu độ chúng sanh trong khắp cùng

         Càn Khôn Vũ Trụ. Biến ra khối trược lẫn khối thanh, biến ra các vị

         Thượng Đế cấp thấp hơn, biến ra Phật, Bồ Tát, Tiên, Thánh, Cha,

         biến ra người (đui, què, mẻ, sứt), biến ra thú cầm, biến ra thảo mộc,

         biến ra kim thạch, biến ra nguyên tử, biến ra hạt tử, biến ra nguyên

         hạt, biến ra ẩn tinh ngọc, biến ra các loại khí ở tầng giới cao: Thanh

         Khí, Thượng Thanh Khí, Thái Thanh Khí, Âm Dương Khí, Thiên

         Khí, Tiên Thiên Khí, biến luôn cả Sa Tăng, Ngạ Quỷ, Ma Vương ba

         tuần, cơi địa ngục.

     *  Đấng Vô Thượng Thượng Đế, cai quản đôn đốc chăm sóc cho

         các Tiểu hồn tu học, tiến hóa trong phạm vi vũ trụ của Ngài điều

         khiển. Biến hóa y như Đấng Vô Vô Thượng Thượng Thượng Đế

         Nguyên Tôn, nhưng chỉ biến hóa trong phạm vi vũ trụ do Ngài chịu

         trách nhiệm mà thôi.

     *  Đấng Tối Thượng Thượng Đế, chịu trách nhiệm trong phạm vi

         Đại Thiên Hệ.

     *  Đấng Thượng Thượng Thượng Đế, chịu trách nhiệm trong

         phạm vi Thiên Hệ.

     *  Đấng Trung Thượng Thượng Đế, chịu trách nhiệm trong phạm

         vi Thiên Hà.

     *  Đấng Tiểu Thượng Thượng Đế, chịu trách nhiệm trong phạm vi

         Thái Dương Hệ.

     *  Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế, chịu trách nhiệm trong phạm vi

         các hành tinh.

 

Các vị Thượng Đế, tuy biến hóa đời đời, làm việc đời đời, khổ cực đời đời để phụng sự cho cơ tiến hóa đời đời của Càn Khôn Vũ Trụ, nhưng vẫn an nghỉ đời đời, cực thanh cực tịnh, cực an lạc, sung sướng vô cùng tận... (chỗ nầy cao siêu, khi về đến ngôi CHA mới hiểu nổi).